Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 136 trang )
của các quy luật tự nhiên trong sự phát triển xã hội, là phù hợp với các nguyên tắc
của kinh tế chính trị [22, tr.10].
Đến giữa thế kỷ XIX, Các Mác (1818-1883) và Ph.Angghen (1820-1895) là
những ngƣời đƣa ra phƣơng pháp mới về nguyên tắc trong việc nghiên cứu lợi ích
kinh tế. Chủ nghĩa Mác cho rằng, lợi ích không chỉ là biểu hiện cụ thể của quan hệ
sản xuất, mà còn là “nguyên tắc cơ bản chi phối hoạt động của con ngƣời” [18,
tr.346]. V.I.Lênin tiếp tục nghiên cứu cụ thể vấn đề lợi ích kinh tế và cho rằng cần
phải thấy những lợi ích là khách quan khi nói: “Lợi ích thúc đẩy cuộc sống các dân
tộc” [14, tr. 82].
Những năm gần đây, trên cơ sở những ý kiến tranh luận về vấn đề này từ
những năm 60 của thế kỷ XX, một số tác giả đã đi sâu vạch ra những mặt cơ bản
khác nhau của quan hệ lợi ích. Z.U.Sôraép (1986) cho rằng: Lợi ích là sự phản ánh
những hệ thống quan hệ phức tạp của một số mặt hoạt động của con ngƣời thông
qua một trong những mặt hoạt động khác nhau của họ trong quá trình thực tiễn tác
động lẫn nhau của con ngƣời. Hay lợi ích là trạng thái quy định hoạt động, là sản
phẩm tất yếu của các quan hệ xã hội hiện có, phản ánh nhận thức của chủ thể, và
đƣợc xác định bởi môi trƣờng xã hội, là khả năng và mục đích của sự hoạt động của
chủ thể theo sự thỏa mãn nhu cầu của cá nhân và xã hội. Ông còn khẳng định, lợi
ích xuất hiện trong quá trình hoạt động của cá nhân, nhóm, giai cấp với tƣ cách là
mặt cơ bản của hoạt động thực tiễn. A.X.Điđcốpxki (1986) nói một cách cụ thể
rằng: Lợi ích phản ánh mâu thuẫn giữa nhu cầu và việc thỏa mãn những nhu cầu, nó
là sự định hƣớng hoạt động sản xuất của con ngƣời.
Nhƣ vậy đa số các tác giả khẳng định lợi ích là cái phản ánh những quan hệ
kinh tế, do các quan hệ kinh tế sinh ra và nó gắn liền với việc thỏa mãn những nhu
cầu của con ngƣời.
Tùy theo cách tiếp cận, có thể phân biệt lợi ích theo lĩnh vực nhƣ lợi ích
kinh tế, lợi ích chính trị, lợi ích tinh thần; theo phạm vi cộng đồng nhƣ lợi ích cá
nhân, lợi ích tập thể, lợi ích xã hội; theo tính chất chủ thể nhƣ lợi ích dân tộc, lợi ích
nhà nƣớc, lợi ích của đảng... Ở đây, luận văn đề cập sâu tới vấn đề lợi ích kinh tế.
9
Ở Việt Nam, tác giả Lê Xuân Tùng cho rằng:
Lợi ích kinh tế là cái biểu hiện những động cơ, mục đích, những nhân tố kích
thích khách quan thúc đẩy hoạt động lao động của con ngƣời. Lợi ích kinh tế gắn
chặt với nhu cầu kinh tế, vì có nhu cầu mới có lợi ích. Nhƣng sẽ là không đúng nếu
đồng nhất nhu cầu với lợi ích kinh tế… Lợi ích kinh tế không phải là nhu cầu nói
chung (nhƣ nhu cầu về ăn, mặc, ở…) mà là việc thỏa mãn nhu cầu một cách tốt
nhất, bao gồm cả nội dung của nhu cầu và phƣơng thức thỏa mãn nhu cầu. Vì suy
cho cùng, cái thúc đẩy ngƣời ta hành động chính là nhằm thỏa mãn trên thực tế nhu
cầu một cách tối ƣu…Có ngƣời hiểu lợi ích kinh tế nhƣ là sự thống nhất giữa nội
dung khách quan và hình thức chủ quan. Theo chúng tôi, lợi ích kinh tế là một
phạm trù kinh tế khách quan, nó phát sinh và tồn tại trên cơ sở một quan hệ sản xuất
nhất định, không tùy thuộc vào ý muốn con ngƣời…Lợi ích kinh tế tồn tại không
tùy thuộc ở chỗ ngƣời ta có nhận thức đƣợc nó hay không, mà do địa vị của họ
trong hệ thống sản xuất xã hội quy định. Vì vậy, về bản chất, lợi ích kinh tế tồn tại
khách quan [20, tr.94-96].
Trong bài viết đăng trên tạp chí Phát triển kinh tế số 200, PGS.TS Đào Duy
Huân viết: Lợi ích kinh tế là cái có ích, cái có lợi về mặt kinh tế. Đây là một phạm
trù kinh tế biểu hiện tinh thần khách quan trong hoạt động kinh tế của con ngƣời tức
biểu hiện quan hệ sản xuất. Vì vậy các quan hệ kinh tế của mỗi xã hội đƣợc biểu
hiện trƣớc hết là lợi ích kinh tế [9].
Tác giả Vũ Hữu Ngoạn viết:
Nguồn gốc sâu xa của các động cơ kinh tế là ở chỗ: cuộc sống của con ngƣời
bao giờ cũng có nhu cầu và đòi hỏi thỏa mãn nhu cầu. Dĩ nhiên không phải nhu cầu
nào cũng làm cho con ngƣời theo đuổi, cũng trở thành động cơ. Có nhu cầu chƣa
thể có sự chín muồi để thực hiện, có những nhu cầu mang tính hiện thực. Những
nhu cầu mang tính hiện thực phụ thuộc vào trình độ của phƣơng thức sản xuất. Khi
nhu cầu có điều kiện thực hiện thì trở thành lợi ích thiết thân của con ngƣời, thôi
thúc con ngƣời vƣơn lên hành động giành cho kỳ đƣợc.
10
Điều cần nhấn mạnh là không phải bản thân nhu cầu là lợi ích kinh tế, mà
nhu cầu khi đƣợc xác định về mặt xã hội mới trở thành lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh
tế là một phạm trù kinh tế khách quan, là hình thức biểu hiện trƣớc hết các quan hệ
sản xuất, nó không tùy thuộc vào ý chí, lòng ham muốn của con ngƣời [21, tr.6162].
Ở tất cả các khái niệm đƣợc tiếp cận theo các quan điểm khác nhau theo mức
độ trừu tƣợng nông sâu khác nhau có thể thấy rõ hầu hết các tác giả khi đề cập đến
khái niệm lợi ích kinh tế đều đề cập đến một phạm trù, đó là nhu cầu kinh tế. Vậy
giữa lợi ích kinh tế và nhu cầu kinh tế có mối quan hệ nhƣ thế nào? Chúng có đồng
nhất với nhau hay không? Để hiểu rõ thêm về lợi ích kinh tế ta đi tìm hiểu về mối
quan hệ giữa lợi ích kinh tế và nhu cầu kinh tế.
Một số tác giả cho rằng, lợi ích và nhu cầu là những phạm trù phản ánh sự
khác biệt hoàn toàn về bản chất và sự tồn tại. Theo họ, cơ sở tác động của lợi ích là
các quá trình lao động sản xuất xã hội, còn nhu cầu thì nảy sinh trong mối quan hệ
giữa con ngƣời với tự nhiên, giữa con ngƣời với con ngƣời mà trong đó hƣớng vào
mục đích nhằm thỏa mãn “cơ thể sống chung”.
Những tác giả khác lại đồng nhất nhu cầu và lợi ích. Họ cho rằng, lợi ích là
nhu cầu đƣợc quyết định bởi xã hội, là nhu cầu khách quan đƣợc chế định bởi vị trí
xã hội giữa các cá nhân, các giai cấp, các dân tộc, các nhóm xã hội, là sự phản ánh
chủ quan các nhu cầu tồn tại khách quan.
Từ những quan điểm nêu trên có thể thấy không thể tách rời lợi ích kinh tế ra
khỏi nhu cầu kinh tế để xét nó nhƣ một hiện tƣợng riêng rẽ. Nhƣng cũng không thể
đồng nhất nhu cầu kinh tế với lợi ích kinh tế. Giữa lợi ích kinh tế và nhu cầu kinh tế
có mối quan hệ gắn bó hữu cơ với nhau. Nếu không có nhu cầu kinh tế thì cũng
không có lợi ích kinh tế. Lợi ích kinh tế chỉ có ý nghĩa khi nó đƣợc đặt trong mối
quan hệ với nhu cầu kinh tế. Nhu cầu kinh tế thể hiện quan hệ chung của con ngƣời
với hoàn cảnh kinh tế xung quanh còn lợi ích kinh tế chẳng những thể hiện mối
quan hệ của con ngƣời với hoàn cảnh kinh tế xung quanh mà còn thể hiện mối quan
hệ giữa ngƣời với ngƣời có cùng nhu cầu kinh tế và đối tƣợng thỏa mãn nhu cầu
11
kinh tế với nhau trong việc thực hiện nhu cầu kinh tế ở các giai đoạn lịch sử nhất
định.
Giữa nhu cầu kinh tế và lợi ích kinh tế có cái chung. Cả hai đều chịu sự chi
phối bởi sự phát triển của trình độ sản xuất và quan hệ sản xuất xã hội, do đó chúng
đều mang tính lịch sử. Cơ sở xuất hiện chúng, động cơ hành động của chúng đều là
quá trình lao động, quá trình hoạt động của con ngƣời.
Nhu cầu kinh tế và lợi ích kinh tế đều chịu sự chi phối của các quan hệ kinh
tế nhƣng ở những mức độ khác nhau, chẳng hạn do địa vị khác nhau của những
ngƣời trong hệ thống sản xuất, cho nên tuy họ có nhu cầu kinh tế nhƣ nhau nhƣng
lợi ích kinh tế của họ lại khác nhau. Nhu cầu kinh tế thể hiện nội dung vật chất của
lợi ích kinh tế và lợi ích kinh tế thể hiện quan hệ phân phối nhu cầu kinh tế của các
quan hệ sản xuất. Tóm lại, nhu cầu kinh tế phản ánh những mối quan hệ tất yếu của
xã hội, còn lợi ích kinh tế thì phản ánh những mối quan hệ trong phạm vi những
mối quan hệ thực hiện nhu cầu kinh tế.
Từ những phân tích trên có thể rút ra quan niệm chung nhất về lợi ích kinh tế
nhƣ sau:
“Lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan biểu hiện của quan hệ
sản xuất, được phản ánh trong ý thức trở thành động cơ thúc đẩy con người hoạt
động kinh tế nhằm thỏa mãn tối ưu nhu cầu kinh tế của chủ thể tham gia hoạt động
đó”.
Nhƣ vậy lợi ích kinh tế do quan hệ sản xuất quyết định. Ở đây ngƣời nào
nắm các điều kiện vật chất của sản xuất ngƣời đó có thể chi phối lợi ích của các chủ
thể khác. Tuy nhiên, lợi ích kinh tế là một phạm trù kinh tế khách quan, là động lực
thúc đẩy hoạt động lao động sáng tạo của con ngƣời cho nên những thực thể kinh tế
nắm giữ các điều kiện vật chất của sản xuất muốn thụ hƣởng đƣợc lợi ích tối đa (tức
là tối đa hóa lợi nhuận) buộc phải đảm bảo lợi ích cho những ngƣời trực tiếp lao
động sáng tạo ra lợi ích cho mình, giống nhƣ sự nuôi dƣỡng những động lực sáng
tạo liên tục ra các lợi ích.
12
1.1.1.2 Bản chất và đặc trưng của lợi ích kinh tế
Xuất phát từ câu trả lời lợi ích kinh tế là gì, có thể chỉ ra lợi ích kinh tế có
những bản chất và đặc trƣng sau:
Thứ nhất, lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện các quan hệ kinh tế và quy
luật kinh tế.
Nói đến lợi ích kinh tế là nói đến quan hệ phân phối kết quả sản xuất hình
thành thu nhập của những ngƣời tham gia vào quá trình sản xuất xã hội. Theo
C.Mác thì quan hệ phân phối này lại phụ thuộc vào quan hệ sở hữu về tƣ liệu sản
xuất. Mỗi quan hệ sản xuất có một phƣơng thức phân phối, do đó có một hình thức
thực hiện lợi ích kinh tế. Tính chất của lợi ích kinh tế là do quan hệ sản xuất quyết
định, mà quan hệ sản xuất này lại do trình độ lực lƣợng sản xuất quyết định. Rõ
ràng nội dung, hình thức, cũng nhƣ phƣơng tiện thực hiện lợi ích đƣợc quyết định
bởi điều kiện xã hội, không phụ thuộc vào ý muốn của chủ thể. Vì vậy, lợi ích kinh
tế là phạm trù kinh tế khách quan, nó chỉ xuất hiện giữa những ngƣời sản xuất có
mối quan hệ kinh tế với nhau.
Trong bài viết của Hồ Tấn Phong đăng trên Tạp chí phát triển kinh tế số 27,
ông viết: Theo Ăngghen: “Các quan hệ kinh tế của một xã hội đƣợc biểu hiện trƣớc
hết nhƣ những lợi ích” [32].
Quan hệ kinh tế quyết định tới lợi ích kinh tế thông qua vị trí, vai trò của các
chủ thể mang tính lợi ích trong hệ thống sản xuất xã hội. Do đó, lợi ích kinh tế là
sản phẩm của những quan hệ kinh tế, là hình thức vốn có, bên trong, hình thức tồn
tại và biểu hiện của các quan hệ kinh tế.
Mặt khác, quan hệ kinh tế là khác quan, cũng nhƣ mọi sự vật, hiện tƣợng nó
luôn luôn tồn tại trong vận động. Hình thức vận động của nó chính là sự vận động
của các quy luật kinh tế do nó trực tiếp sinh ra. Thông qua sự vận động của các quy
luật kinh tế mà quan hệ sản xuất ảnh hƣởng đến quá trình sản xuất. Nhƣng, các quy
luật kinh tế chỉ có thể tác động thông qua con ngƣời tức là thông qua lợi ích kinh tế
của con ngƣời. Nhƣ vậy, lợi ích kinh tế đóng vai trò là cơ chế tác động của các quy
luật kinh tế.
13
Vì vậy, có thể khẳng định lợi ích kinh tế là sự thống nhất biện chứng giữa
nhân tố khách quan và nhân tố chủ quan.
Về mặt khách quan: lợi ích kinh tế là hình thức biểu hiện của quan hệ sản
xuất, là cơ chế tác động chung của các quy luật kinh tế do quan hệ sản xuất trực tiếp
dinh ra.
Về mặt chủ quan: lợi ích kinh tế là động cơ của hành động kinh tế của con
ngƣời. Không có lợi ích khách quan thuần túy tồn tại ngoài con ngƣời hoăc là con
ngƣời không có mặt ý thức gì về nó.
Thứ hai, lợi ích kinh tế luôn gắn với nhu cầu kinh tế.
Xét một cách khái quát thì nhu cầu và sự hiện thực hóa nhu cầu là vấn đề
sống còn của con ngƣời trong mọi chế độ xã hội. Mọi động lực của đời sống xã hội,
xét đến cùng đều bắt nguồn từ nhu cầu và sự hiện thực hóa nhu cầu, tức là lợi ích
mà trƣớc hết là lợi ích kinh tế. Ta biết rằng, con ngƣời là một sinh thể - xã hội, là
một bộ phận của thế giới tự nhiên. Muốn tồn tại và phát triển đƣợc con ngƣời nhất
thiết phải trao đổi vật chất liên tục với môi trƣờng xung quanh. Sự trao đổi đó nhằm
để đáp lại cái gì đó bị thiếu hụt hay dƣ thừa trong bản thân con ngƣời. Khi xuất hiện
nhu cầu trao đổi vật chất bao giờ cũng thôi thúc con ngƣời hoạt động nhằm thỏa
mãn. Sự hoạt động nhằm thỏa mãn nhu cầu chính là quá trình khôi phục lại trạng
thái mất cân bằng giữa chủ thể và khách thể. TS.Nguyễn Linh Khiếu trong cuốn
“Góp phần nghiên cứu quan hệ lợi ích” cũng đã từng viết: “Mục đích xét đến cùng,
chỉ là hình ảnh của đối tƣợng thỏa mãn nhu cầu của con ngƣời. Nghĩa là, hoạt động
của con ngƣời cuối cùng chỉ là nhằm thỏa mãn những nhu cầu của họ…nhu cầu là
nguồn gốc và là động lực thúc đẩy mọi hoạt động của con ngƣời…” [12, tr.36].
Khi nhu cầu xuất hiện, đồng thời đối tƣợng để thỏa mãn nhu cầu cũng nhƣ
phƣơng tiện, phƣơng thức và những khả năng hiện thực hóa nhu cầu cũng đƣợc
phản ánh vào trong đầu óc của con ngƣời, và con ngƣời bắt đầu hƣớng sự nhận thức
của mình vào việc tìm kiếm phƣơng thức để thỏa mãn nhu cầu đó. Đối với chủ thể
hành động thì việc thỏa mãn nhu cầu bao giờ cũng đƣợc thực hiện thông qua quan
hệ lợi ích trong chế độ xã hội cụ thể.
14
Nhu cầu càng lớn thì sự hấp dẫn của lợi ích kinh tế đối với chủ thể càng cao.
Do đó động cơ tƣ tƣởng nảy sinh trên cơ sở của lợi ích kinh tế sẽ càng cuốn hút,
thúc đẩy ngƣời ta lao vào hành động. Theo tác giả Lê Xuân Tùng trong cuốn “Bàn
về các lợi ích kinh tế” thì lợi ích kinh tế nằm trong chuỗi “1-Các quy luật kinh tế,
nhƣ là cái bản chất nhất của quan hệ sản xuất, chi phối các mối liên hệ cơ bản giữa
những ngƣời sản xuất với nhau; 2-Nhu cầu, với tƣ cách là nhu cầu kinh tế, bị quyết
định bởi phƣơng thức sản xuất, mà trực tiếp là quan hệ sản xuất…3-Lợi ích kinh tế,
bắt nguồn trực tiếp từ nhu cầu kinh tế, vì không có nhu cầu thì không có lợi ích; 4Cuối cùng là hoạt động của con người, đƣợc kích thích bởi lợi ích nhằm thỏa mãn
các nhu cầu kinh tế.” [19, tr.95]. Nhƣ vậy, lợi ích kinh tế chính là một khâu trung
gian, qua đó mà tính tất yếu khách quan chuyển thành hành động có ý thức của con
ngƣời. Vì lẽ đó mà ngƣời ta thấy lợi ích kinh tế là khâu nhạy cảm nhất trong toàn bộ
chuỗi quy định nhân quả gây nên hoạt động của con ngƣời, là yếu tố mà tác động
vào đó sẽ gây nên phản ứng nhanh nhạy nhất của cơ thể xã hội.
Thứ ba, lợi ích kinh tế bao giờ cũng mang tính lịch sử và tính giai cấp.
Mỗi xã hội bao giờ cũng đều có một hệ thống lợi ích kinh tế nhất định do
toàn bộ những quan hệ kinh tế quyết định. Chúng thể hiện tính chất và cơ cấu của
những quan hệ sản xuất ấy. Mức độ thỏa mãn những nhu cầu lợi ích là do trình độ
phát triển lực lƣợng sản xuất và tính chất quan hệ sản xuất của xã hội đó quyết định.
Đồng thời, mỗi một hệ thống lợi ích kinh tế lại có sự khác nhau về tính chất lịch sử,
về cơ cấu, về vị trí và mối quan hệ giữa những bộ phận trong cơ cấu đó.
Thật vậy, lợi ích kinh tế chính là sự hiện thực hóa các nhu cầu. Song không
phải mọi nhu cầu của con ngƣời đều có khả năng hiện thực hóa mà chỉ có nhu cầu
nào xuất phát từ chính năng lực đáp ứng của nền sản xuất xã hội mới đƣợc hiện
thực hóa. Theo C.Mác: “Quy mô của nhu cầu đƣợc gọi là tất yếu và những phƣơng
thức để thỏa mãn nhu cầu ấy chính là sản phẩm của lịch sử và phụ thuộc phần lớn
vào trình độ văn hóa của đất nƣớc” [17, tr.27]. Vì vậy lợi ích kinh tế phụ thuộc vào
hoàn cảnh của đất nƣớc trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
15
Trong xã hội có giai cấp, lợi ích tất yếu mang tính giai cấp. Bởi vì các chủ
thể trong một xã hội nhất định bao giờ cũng thể hiện tính giai cấp của mình ngay
trong những lợi ích kinh tế.
Chẳng hạn trong xã hội tƣ bản chủ nghĩa, lợi ích kinh tế của giai cấp tƣ sản là
thu giá trị thặng dƣ ngày càng lớn, còn lợi ích kinh tế của ngƣời lao động chỉ giới
hạn trong phạm vi giá trị sức lao động của họ.
Trong điều kiện một quốc gia đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
nhƣ Việt Nam, mục đích chung của toàn bộ nền kinh tế là thúc đẩy tiến trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa để phát triển lực lƣợng sản xuất, tạo ra cơ sở vật chất cho
chủ nghĩa xã hội, trong điều kiện giai cấp công nhân mà đại diện của nó là Đảng
cộng sản nắm chính quyền và mục đích của ngƣời lao động là có việc làm, có thu
nhập và nâng cao đời sống, thì mối quan hệ giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng
lao động tốt nhất là mối quan hệ đôi bên cùng có lợi chứ không thể là mối quan hệ
một mất một còn. Ở đây, ngƣời nắm giữ các điều kiện vật chất của ngƣời lao động
cũng cần đƣợc thụ hƣởng một phần thỏa đáng bộ phận giá trị mới do lao động tạo ra
và ngƣời lao động cũng cần nhận đƣợc một phần hợp lý bộ phận giá trị mới do
chính lao động của mình sáng tạo ra.
1.1.1.3 Vai trò của việc đảm bảo lợi ích kinh tế
Một là, lợi ích kinh tế là động lực thúc đẩy mọi tiến bộ xã hội.
Lợi ích kinh tế với tƣ cách là sự biểu hiện các quan hệ kinh tế và các quy luật
kinh tế phản ánh các quan hệ kinh tế đó, nó luôn có vai trò là động lực mạnh mẽ
thúc đẩy mọi tiến bộ xã hội.
Toàn bộ những quy luật phát triển của xã hội, trong đó có quy luật kinh tế là
một bộ phận, tuy tồn tại khách quan ngoài ý muốn chủ quan của con ngƣời, nhƣng
chỉ có thể thực hiện đƣợc thông qua hoạt động có mục đích của con ngƣời.
Thông qua lợi ích kinh tế mà con ngƣời nhận thức đƣợc các quy luật kinh tế
và hoạt động của mình nhằm thực hiện đƣợc các quy luật ấy. Từ đó lựa chọn những
hình thức, biện pháp thích hợp và tổ chức thực hiện các quy luật ấy một cách tốt
nhất nhằm mang lại kết quả cao nhất.
16
Nhƣ vậy, lợi ích kinh tế chỉ thực sự trở thành động lực mạnh mẽ khi nó phản
ánh đúng đƣợc yêu cầu của các quy luật kinh tế khách quan, phản ánh đƣợc vị trí
của các chủ thể mang lợi ích trong hệ thống quan hệ sản xuất nhất định.
Hai là, lợi ích kinh tế là động lực mạnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế phát triển, là
biện pháp cơ bản nhất để kích thích tính tích cực, năng động và sáng tạo của ngƣời
lao động.
Lợi ích kinh tế là một trong những vấn đề sống còn của sản xuất và đời sống
xã hội. Lịch sử đã từng chứng minh, động lực thúc đẩy con ngƣời hoạt động trong
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội không phải là cái gì khác ngoài lợi ích của họ.
Chính những lợi ích đó đã gắn bó con ngƣời với cộng đồng của mình và tạo ra ở
con ngƣời những sự kích thích, thôi thúc, khát vọng và sự say mê trong hoạt động
sản xuất kinh doanh.
Lợi ích kinh tế đƣợc nhận thức và thực hiện đúng thì nó sẽ là động lực kinh
tế thúc đẩy con ngƣời hành động. Khi các lợi ích kinh tế đƣợc nhận thức và thực
hiện đúng sẽ làm nảy sinh hoạt động của các chủ thể, đồng thời tạo ra sự say mê,
kích thích hoạt động thực tiễn của con ngƣời.
Lợi ích kinh tế là sự thống nhất biện chứng giữa nhân tố khách quan và nhân
tố chủ quan cho nên nó trở thành động lực mạnh mẽ ở bên trong nền kinh tế, thúc
đẩy nền kinh tế phát triển. Một mặt, thông qua lợi ích kinh tế, con ngƣời mƣu cầu
cuộc sống. Mặt khác, thông qua lợi ích kinh tế mà xu hƣớng phát triển khách quan
của nền sản xuất xã hội đƣợc thực hiện.
Nhƣ vậy, lợi ích kinh tế không chỉ phản ánh những quan hệ kinh tế và những
quy luật kinh tế, mà còn bao hàm trong nó mục đích và sự lựa chọn những phƣơng
thức hoạt động nhằm thỏa mãn những nhu cầu khách quan của cuộc sống.
Ba là, lợi ích kinh tế còn có vai trò quan trọng trong việc củng cố, duy trì các
mối quan hệ kinh tế giữa các chủ thể sản xuất kinh doanh.
Một khi con ngƣời (chủ thể) tham gia vào các hoạt động kinh tế đều nhằm
đạt tới các lợi ích nhất định. Đạt đƣợc những lợi ích tƣơng xứng với kết quả sản
xuất, kinh doanh thì mới đảm bảo nâng cao tính ổn định và sự phát triển của các chủ
17
thể lợi ích. Ngƣợc lại, khi không mang lại lợi ích hoặc lợi ích không đƣợc thực hiện
đầy đủ thì sẽ làm cho các mối quan hệ giữa các chủ thể xuống cấp. Nếu tình trạng
đó kéo dài thì sớm muộn sẽ dẫn đến tình trạng tiêu cực trong hoạt động sản xuất
kinh doanh.
Nhƣ vậy, suy cho cùng vấn đề cốt yếu để tìm ra giải pháp cho hoạt động kinh
tế là vấn đề con ngƣời. Biện pháp cơ bản chung nhất để kích thích tính tích cực của
ngƣời lao động là phải chú ý đến lợi ích cá nhân, trong đó đặc biệt là lợi ích kinh tế.
Bởi rõ ràng lợi ích kinh tế là lợi ích căn bản nhất. Khi chú ý đến lợi ích cá nhân của
con ngƣời thì cần phải hiểu rõ những khía cạnh sau:
- Để kích thích tính tích cực ở mức độ cao nhất cần quan tâm đặc biệt đến lợi
ích kinh tế, đồng thời không quên các lợi ích khác của mỗi cá nhân. Sự kết hợp đó
sẽ khai thác không chỉ thế mạnh của lợi ích kinh tế mà cả thế mạnh của các lợi ích
khác và thế mạnh tƣơng hỗ giữa các lợi ích đó trong mỗi con ngƣời.
- Quan tâm đến lợi ích cá nhân, tạo điều kiện để mỗi ngƣời lao động có thể
thực hiện đƣợc lợi ích cá nhân của mình nhƣng không khuyến khích họ thực hiện
lợi ích cá nhân mình bằng mọi cách. Bởi vì con ngƣời do lợi ích kinh tế và các lợi
ích khác thúc đẩy thì có sáng kiến hay, tinh thần trách nhiệm cao và hành động hợp
pháp. Ngƣợc lại cũng không loại trừ có ngƣời dùng mánh lới, thủ đoạn gian dối hay
những hành động trái pháp luật để đạt đƣợc lợi ích cá nhân.
- Bên cạnh đó, cần phân biệt lợi ích cá nhân chính đáng với lợi ích cá nhân
không chính đáng. Từ đó khuyến khích ngƣời lao động thực hiện lợi ích cá nhân
chính đáng và có biện pháp để loại trừ lợi ích cá nhân không chính đáng.
- Quan tâm đến lợi ích cá nhân và lợi ích kinh tế cá nhân phải đặt trong mối
quan hệ không làm tổn hại đến lợi ích xã hội và lợi ích tập thể. Tức là, việc khuyến
khích lợi ích kinh tế cá nhân phải nằm trong mối quan hệ hài hòa với các lợi ích
kinh tế khác (lợi ích kinh tế tập thể và lợi ích kinh tế xã hội).
18
1.1.2 Hệ thống lợi ích kinh tế ở Việt Nam hiện nay
Lợi ích kinh tế bao giờ cũng biểu hiện ra là những lợi ích kinh tế xác định
của những chủ thể cụ thể. Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nƣớc ta, số lƣợng
các chủ thể lợi ích kinh tế tăng lên rất nhiều so với trƣớc đây. Các chủ thể này quan
hệ với nhau trong một hệ thống nhiều chiều, ngang dọc, chồng chéo. Bên cạnh đó ở
nƣớc ta lại có sự đan xen của nhiều phƣơng thức sản xuất đã có trong lịch sử, nên
ngoài việc tăng số lƣợng các chủ thể lợi ích kinh tế còn có đặc điểm là cùng một
chủ thể lợi ích kinh tế lại có thể mang những sắc thái khác nhau theo từng góc độ
của phƣơng thức sản xuất mà chủ thể đó tham gia. Một chủ thể lợi ích kinh tế có thể
tham gia vào nhiều mối quan hệ lợi ích kinh tế trong xã hội. Mặt khác, nƣớc ta là
một nƣớc có nền kinh tế chậm phát triển, bị chiến tranh tàn phá và hiện nay đang
trên con đƣờng hội nhập vào nền kinh tế thế giới lại đồng thời phải giải quyết hàng
loạt các chính sách xã hội nhằm đảm bảo vấn đề an sinh xã hội, công bằng xã hội.
Chính những điều trên đã làm cho hệ thống lợi ích kinh tế ở nƣớc ta trở nên đa dạng
và phức tạp. Tùy theo cách tiếp cận mà hệ thống lợi ích kinh tế có các phân hệ lợi
ích kinh tế nhƣ sau:
Đứng trên góc độ toàn xã hội thì hệ thống lợi ích kinh tế ở nƣớc ta hiện nay
bao gồm ba phân hệ lợi ích kinh tế đó là lợi ích kinh tế cá nhân, lợi ích kinh tế tập
thể, lợi ích kinh tế xã hội hay còn gọi là lợi ích kinh tế nhà nƣớc.
Đứng trên góc độ các khâu của quá trình tái sản xuất thì hệ thống lợi ích kinh
tế bao gồm các phân hệ: lợi ích kinh tế của ngƣời sản xuất, lợi ích kinh tế của ngƣời
trao đổi, lợi ích kinh tế của ngƣời phân phối và lợi ích kinh tế của ngƣời tiêu dùng.
Dƣới góc độ các thành phần kinh tế, hệ thống lợi ích kinh tế bao gồm các
phân hệ lợi ích kinh tế trong các thành phần. Ứng với nền kinh tế nhiều thành phần,
các lợi ích kinh tế thể hiện rất đa dạng về hình thức, phức tạp về nội dung. Trong
thành phần kinh tế nhà nƣớc và kinh tế tập thể với đặc trƣng cơ bản là sở hữu Nhà
nƣớc và tập thể về tƣ liệu sản xuất chủ yếu, hệ thống lợi ích kinh tế đƣợc cụ thể hoá
bằng lợi ích ngƣời lao động, lợi ích tập thể và lợi ích xã hội.
19