1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

Chương 3. PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ĐẢM BẢO LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƯỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP DỆT MAY TƯ NHÂN Ở TỈNH THÁI BÌNH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 136 trang )


phần đáng kể cải thiện đời sống của ngƣời lao động hoạt động trong ngành, đảm

bảo đƣợc lợi ích kinh tế của ngƣời lao động trong ngành nói chung và trong các

doanh nghiệp dệt may tƣ nhân nói riêng.

3.2 NHỮNG PHƢƠNG HƢỚNG CƠ BẢN NHẰM ĐẢM BẢO LỢI ÍCH

KINH TẾ CỦA NGƢỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP DỆT

MAY TƢ NHÂN Ở TỈNH THÁI BÌNH

3.2.1 Hoàn thiện cơ chế chính sách nhằm đảm bảo lợi ích kinh tế của

ngƣời lao động trong các doanh nghiệp dệt may tƣ nhân

Để đảm bảo lợi ích của ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao động trong các

doanh nghiệp dệt may tƣ nhân hài hoà ổn định, phƣơng hƣớng hoàn thiện luật pháp,

chủ trƣơng, chính sách nhằm giải quyết quan hệ lợi ích giữa ngƣời lao động và

ngƣời sử dụng lao động cần thực hiện theo các định hƣớng sau:

- Giải quyết quan hệ lợi ích phải trên cơ sở đảm bảo hài hoà lợi ích của ngƣời

lao động và ngƣời sử dụng lao động. Lợi ích của ngƣời lao động và ngƣời sử dụng

lao động có sự mâu thuẫn với nhau, do đó, để bảo vệ đƣợc lợi ích ngƣời lao động

cần chú trọng tới các quyền lợi cơ bản nhƣ:

+ Yêu cầu những đãi ngộ hợp lý;

+ Yêu cầu chủ doanh nghiệp bảo đảm phúc lợi cho mình;

+ Yêu cầu môi trƣờng làm việc đƣợc an toàn, vệ sinh;

+ Tham gia các tổ chức công đoàn;

+ Tổ chức trao đổi ý kiến giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng lao

động, để ngƣời sử dụng lao động hiểu rõ và tôn trọng quyền lợi của

ngƣời lao động.

- Xây dựng nhận thức chung giữa ngƣời sử dụng lao động và ngƣời lao động

để cùng hỗ trợ nhau trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi.

- Xử lý một cách công bằng những tranh chấp giữa ngƣời sử dụng lao động và

ngƣời lao động.

- Xây dựng và củng cố quan hệ lợi ích giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng

lao động trong các doanh nghiệp dệt may tƣ nhân, đây là một quá trình lâu dài, bằng



100



nhiều biện pháp tổng hợp. Quan hệ lợi ích giữa ngƣời lao động và ngƣời sử dụng

lao động trong các doanh nghiệp tƣ nhân trong đó có doanh nghiệp dệt may là một

vấn đề phức tạp, và mang nhiều màu sắc mới. Vì vậy, quá trình xây dựng quan hệ

lợi ích phải vận dụng nhiều biện pháp tổng hợp trên các văn bản pháp luật mà hiện

nay chúng ta đang tiến hành xây dựng, hoàn thiện, cũng nhƣ học hỏi một cách có

lựa chọn kinh nghiệm của các nƣớc khác. Đối với quan hệ lợi ích kinh tế trong các

doanh nghiệp tƣ nhân trong đó có doanh nghiệp dệt may, Nhà nƣớc bằng sự điều

tiết của mình sẽ tạo ra sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trƣờng lao động, bằng cách

xoá bỏ những rào cản để doanh nghiệp có thể dễ dàng thu hút nguồn lực lao động và

ngƣời lao động hiểu rõ quyền và nghĩa vụ của mình trong ký kết hợp đồng lao động.

Muốn vậy nhà nƣớc phải không ngừng hoàn thiện khung thể chế pháp lý thì các cơ

quan quản lý của nhà nƣớc mới có thể điều chỉnh mối quan hệ kinh tế giữa doanh

nghiệp với ngƣời lao động, mà cái đích là bảo vệ đƣợc quyền lợi chính đáng của

ngƣời lao động. Sự điều chỉnh và can thiệp của nhà nƣớc đi từ chức năng cung cấp

thông tin về kinh tế, tiến hành kiểm tra và xử lý những hành vi vi phạm lợi ích của

những chủ thể tham gia quan hệ kinh tế.

Hiện nay có 3 loại hình công cụ điều tiết thƣờng đƣợc sử dụng đối với thị

trƣờng lao động bao gồm: các công cụ luật pháp, công cụ thƣơng thảo tập thể và

công cụ khuyến khích kinh tế. Điều quan trọng khi lựa chọn các công cụ này là phải

đoán trƣớc các hậu quả kinh tế và xã hội của chúng, nhất là ảnh hƣởng đối với tăng,

giảm việc làm, đối với năng suất lao động, thu nhập và tiền lƣơng, đối với mức độ

đƣợc bảo đảm về mặt xã hội của ngƣời lao động.

Sự can thiệp và điều chỉnh của nhà nƣớc phải tạo ra thế chủ động cho doanh

nghiệp trong việc lựa chọn ngành nghề, quy mô sản xuất, tự chịu trách nhiệm về kết

quả sản xuất kinh doanh, vốn và các quan hệ về dân sự giữa các chủ thể kinh tế.

Đồng thời sự can thiệp của nhà nƣớc cũng phải tạo ra cho ngƣời lao động đƣợc tự

do lựa chọn việc làm phù hợp với năng lực, với mức thù lao xứng đáng và điều kiện

lao động tốt hơn. Đảm bảo cho ngƣời lao động có thể từng bƣớc nâng cao đời sống

vật chất và tinh thần cho bản thân và gia đình. Nhà nƣớc sử dụng quyền lực chính



101



trị tập trung để bảo vệ và phát triển tự do cá nhân, đồng thời cũng cần ngăn chặn các

vi phạm nảy sinh từ sự lạm dụng tự do có thể dẫn đến những xung đột giữa ngƣời

sử dụng lao động và ngƣời lao động.

- Tổ chức triển khai thực hiện đồng bộ hệ thống pháp luật, chính sách lao động

đến tận doanh nghiệp và ngƣời lao động; bổ sung số lƣợng và nâng cao chất lƣợng

đội ngũ thanh tra lao động nhằm tăng cƣờng công tác thanh tra, xử lý nghiêm các vi

phạm pháp luật lao động trong doanh nghiệp; hoàn thiện thể chế và chính sách để

thị trƣờng lao động phát triển lành mạnh, bảo đảm cân đối cung - cầu lao động giữa

các ngành, các vùng, giữa thành thị, nông thôn và cơ cấu trình độ tay nghề.

- Tiếp tục hoàn thiện khung pháp lý và tạo lập môi trƣờng để đại diện ngƣời sử

dụng lao động, hiệp hội doanh nghiệp, hiệp hội ngành nghề hoạt động có hiệu quả

nhằm hỗ trợ doanh nghiệp trong việc thực thi pháp luật và chính sách về lao động,

nâng cao trách nhiệm của ngƣời sử dụng lao động trong việc chăm lo lợi ích, đời

sống vật chất và tinh thần cho ngƣời lao động, thực hiện tốt cơ chế phối hợp ba bên

ở cấp ngành và địa phƣơng về quan hệ lao động, thúc đẩy ký kết thỏa ƣớc lao động

tập thể cấp ngành, cấp khu vực và trong doanh nghiệp.

3.2.2 Xây dựng củng cố nâng cao vai trò của các tổ chức chính trị - xã

hội, kiểm tra giám sát của nhà nƣớc trong việc giải quyết mối quan hệ hài hòa

về lợi ích kinh tế trong các doanh nghiệp dệt may tƣ nhân

Trong nền kinh tế thị trƣờng hiện nay, sự quản lý của nhà nƣớc đối với doanh

nghiệp tƣ nhân trong đó có doanh nghiệp dệt may là rất cần thiết và quan trọng. Sự

quản lý, giám sát của nhà nƣớc nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này hoạt

động đúng định hƣớng và đảm bảo lợi ích của doanh nghiệp cũng nhƣ lợi ích của

ngƣời lao động. Nếu sự quản lý, giám sát của nhà nƣớc thiếu một cơ chế chính sách

đúng đắn, thiếu khoa học sẽ làm ảnh hƣởng xấu đến mục tiêu lợi nhuận của doanh

nghiệp cũng nhƣ quyền lợi chính đáng của ngƣời lao động.

Các ngành, các cấp căn cứ vào chức năng nhiệm vụ phải tăng cƣờng trách

nhiệm của mình trong việc chủ động triển khai thực hiện các cơ chế, chính sách liên

quan đến tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp. Khuyến khích và tạo điều kiện



102



cho các doanh nghiệp phát triển, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh và không

ngừng chăm lo đến đời sống ngƣời lao động. Đồng thời kiên quyết xử lý những

doanh nghiệp làm ăn vi phạm pháp luật, vi phạm lợi ích kinh tế của ngƣời lao động,

có các chế tài chặt chẽ và nghiêm khắc hơn nhằm đảm bảo lợi ích cho ngƣời lao

động.

Tăng cƣờng chức năng giám sát của công đoàn: trong đó ban chấp hành công

đoàn cơ sở cần tổ chức giám sát việc thực hiện thoả ƣớc lao động tập thể của chủ

doanh nghiệp, theo dõi, phát hiện kịp thời các trƣờng hợp ngƣời sử dụng lao động vi

phạm pháp luật lao động kiến nghị với các cơ quan chức năng kiểm tra, xử lý. Phát

hiện và giải quyết kịp thời các tranh chấp lao động phát sinh.

Tổ chức bộ máy hoạt động pháp luật mang tính hệ thống và chiến lƣợc hơn

nữa. Bồi dƣỡng nâng cao năng lực cán bộ công đoàn để họ có đủ trình độ, năng lực

đảm nhiệm vai trò là ngƣời đại diện bảo vệ lợi ích công nhân lao động, đồng thời là

ngƣời phát hiện, chủ động đề xuất giải quyết những xung đột lợi ích giữa ngƣời lao

động và doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần có cơ chế chính sách cho cán bộ làm công

đoàn trong các doanh nghiệp, trƣớc mắt là cơ chế bảo vệ cán bộ công đoàn. Mở

rộng các hình thức tuyên truyền, bổ sung tài liệu phong phú nhằm giáo dục ngƣời

lao động ý thức đƣợc quyền lợi của mình khi tham gia lao động.

Để giải quyết hài hòa lợi ích kinh tế của ngƣời lao động trong quá trình sản

xuất kinh doanh của doanh nghiệp, Đảng, Nhà nƣớc và các tổ chức chính trị - xã hội

cần đổi mới phƣơng thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã hội

trong các doanh nghiệp, đồng thời, đổi mới phƣơng thức hoạt động của các tổ chức

này sao cho phù hợp với tình hình mới, sớm có một chiến lƣợc tổng thể và đồng bộ

sau:

- Đẩy mạnh tuyên truyền và giáo dục để nhận thức rõ hơn về vai trò, vị trí

ngƣời lao động trong thời đại mới. Xuất phát từ thực trạng đời sống của ngƣời

ngƣời lao động còn nhiều khó khăn, nên trong quan niệm của xã hội hiện nay, hình

ảnh ngƣời lao động trong các doanh nghiệp dệt may tƣ nhân chƣa phải là hình ảnh

đƣợc đề cao. Trong điều kiện nhƣ thế, cần có một chiến dịch tuyên truyền, vận động



103



rộng khắp trong xã hội nhằm cho xã hội nhận thức đƣợc vai trò và vị trí quan trọng

của ngƣời lao động trong sự nghiệp phát triển kinh tế của tỉnh cũng nhƣ của cả

nƣớc.

- Có chiến lƣợc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực vừa đông đảo, có chất

lƣợng cao, vừa phong phú, đa dạng nhằm mang lại lợi ích tối đa cho ngƣời lao động

khi tham gia lao động sản xuất kinh doanh.

- Cần thực hiện nghiêm chỉnh Quy chế Dân chủ trong các loại hình doanh

nghiệp khác nhau, trong đó có doanh nghiệp dệt may tƣ nhân. Một khi ngƣời lao

động đƣợc tôn trọng, đƣợc thực sự góp phần vào quá trình phát triển doanh nghiệp

thì sẽ tạo ra một động lực mạnh mẽ thúc đẩy cán bộ, công nhân yên tâm và hăng say

làm việc, sáng tạo mang lại nhiều lợi ích cho doanh nghiệp và bản thân.

- Đổi mới phƣơng thức lãnh đạo của Đảng đối với các tổ chức chính trị - xã

hội trong các doanh nghiệp; đồng thời, đổi mới hoạt động của các tổ chức chính trị xã hội trong các doanh nghiệp phù hợp với tình hình mới. Trong thời gian vừa qua,

vai trò của Đảng trong các doanh nghiệp khá mờ nhạt. Các tổ chức chính trị - xã

hội trong nhiều doanh nghiệp hầu nhƣ rất lúng túng trong phƣơng hƣớng hoạt động,

không hoạt động hoặc hoạt động chỉ mang tính hình thức. Đặc biệt tạo lập mối quan

hệ mới giữa Đảng và tổ chức công đoàn, từng bƣớc góp phần đƣa Công đoàn trở

thành một tổ chức hùng mạnh, thực sự xứng đáng là tổ chức hoạt động vì quyền lợi

chính đáng của toàn thể công nhân, lao động. Sự lãnh đạo sát sao của Đảng đối với

tổ chức công đoàn sẽ là một sức mạnh mới thiết thực góp phần bảo vệ, chăm sóc và

phát triển lực lƣợng lao động trong các doanh nghiệp.

- Công đoàn nhấn mạnh việc coi trọng bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính

đáng của công nhân, viên chức, lao động. Các cấp công đoàn, nhất là công đoàn cơ

sở, đi sâu vào đời sống công nhân, ngƣời lao động, nắm vững tâm tƣ, nguyện vọng

của họ; kịp thời phát hiện những mâu thuẫn nảy sinh trong quan hệ giữa ngƣời sử

dụng lao động và ngƣời lao động; kịp thời tham gia với giới chủ, ngƣời sử dụng lao

động đƣa ra những giải pháp tích cực giải quyết những mâu thuẫn này; quan tâm



104



đến vấn đề tiền lƣơng, tiền thƣởng, bảo hiểm xã hội, an toàn, vệ sinh lao động, bảo

vệ môi trƣờng sinh thái.

Công đoàn đẩy mạnh công tác giáo dục, nâng cao trình độ học vấn, tay nghề,

kiến thức pháp luật cho ngƣời lao động. Trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế,

Công đoàn cần tuyên truyền để công nhân tích cực học tập nâng cao trình độ học

vấn, tay nghề, kiến thức pháp luật để tự bảo vệ mình, tồn tại và phát triển trong kinh

tế thị trƣờng; hiểu chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức Công đoàn Việt

Nam; thấy đƣợc lợi ích của bản thân, của doanh nghiệp khi thành lập tổ chức Công

đoàn cơ sở.

Công đoàn thực sự là ngƣời đại diện của công nhân lao động, điều hòa quan hệ

lao động, thúc đẩy sự phát triển và ổn định xã hội. Công đoàn chủ động phối hợp

với ngƣời sử dụng lao động thƣơng lƣợng, ký kết thỏa ƣớc lao động tập thể; tích

cực giải quyết mâu thuẫn, bất đồng giữa các bên để phòng ngừa, giảm thiểu các

tranh chấp lao động; xây dựng mối quan hệ phối hợp với các cơ quan nhà nƣớc,...

nhằm thúc đẩy việc hoàn thành nhiệm vụ của mỗi bên, chăm lo quyền, lợi ích hợp

pháp của ngƣời lao động. Thay mặt công nhân lao động, Công đoàn tham gia xây

dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật đáp ứng yêu cầu hội nhập, tăng

cƣờng kiểm tra, giám sát việc thi hành chính sách, pháp luật, nhất là các chính sách,

pháp luật liên quan đến quyền lợi, nghĩa vụ của công nhân, thực hiện tốt cơ chế đối

thoại giữa ngƣời lao động với ngƣời sử dụng lao động, chủ động tham gia giải quyết

có hiệu quả các tranh chấp lao động để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng

của ngƣời lao động.

3.3



GIẢI PHÁP CƠ BẢN NHẰM ĐẢM BẢO LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA



NGƢỜI LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP DỆT MAY TƢ NHÂN Ở

TỈNH THÁI BÌNH.

3.3.1 Nhóm giải pháp về hoàn thiện chính sách bảo đảm lợi ích kinh tế

của ngƣời lao động

Trong điều kiện hiện nay, đời sống vật chất của ngƣời lao động nói chung còn

thấp. Do vậy cần có sự quan tâm đúng mức tới nhu cầu và lợi ích của ngƣời lao



105



động trong đó trƣớc tiên là lợi ích kinh tế. Bởi lợi ích kinh tế vẫn là động lực mạnh

mẽ nhất, có ý nghĩa quyết định đến tất cả các động lực khác. Quan tâm đúng mức,

giải quyết thoả đáng vấn đề lợi ích kinh tế cho ngƣời lao động chắc chắn sẽ phát

huy đƣợc tinh thần trách nhiệm, tính năng động sáng tạo và tạo sự gắn bó của ngƣời

lao động với doanh nghiệp. Tuy nhiên khi giải quyết vấn đề lợi ích kinh tế cho

ngƣời lao động cần phải kết hợp hài hoà với lợi ích tinh thần, lợi ích trƣớc mắt và

lợi ích lâu dài, gắn lợi ích với nghĩa vụ. Do vậy cần thƣờng xuyên quan tâm xây

dựng và hoàn thiện các quy định của pháp luật lao động và các chính sách đảm bảo

lợi ích của ngƣời lao động. Trƣớc mắt cần tập trung hoàn thiện một số chính sách

cơ bản sau:

3.3.1.1 Chính sách đào tạo và đào tạo lại người lao động

Để nâng cao giá trị sức lao động đòi hỏi chất lƣợng lao động phải đƣợc nâng

lên. Vì vậy việc đào tạo và đào tạo lại nhằm nâng cao trình độ tay nghề, chuyên

môn nghiệp vụ, trình độ văn hoá cho ngƣời lao động phải đƣợc quan tâm hàng đầu.

Việc đào tạo và đào tạo lại cho ngƣời lao động nhằm nâng cao trình độ học

vấn, năng lực trí tuệ, tay nghề chuyên môn, nghiệp vụ, văn hoá để họ nhanh chóng

có điều kiện tiếp thu, làm chủ công nghệ mới, nâng cao năng suất lao động, chất

lƣợng sản phẩm và hiệu quả kinh doanh. Nâng cao trình độ cho ngƣời lao động phải

hƣớng tới chất lƣợng và phát triển nghề nghiệp, hiện đại hoá ngành nghề nói chung.

Nâng cao trình độ tay nghề, chuyên môn còn góp phần phát triển các giá trị văn hoá

lao động, làm hình thành phong cách công nghiệp, đạo đức, lối sống, phát triển đời

sống tinh thần, tích cực chủ động trong hoạt động nghề nghiệp, xã hội, chính trị của

ngƣời lao động.

Để công tác đào tạo có hiệu quả và đúng mục tiêu, trƣớc hết Nhà nƣớc phải

nắm bắt đƣợc những công nghệ tiên tiến đang và sẽ đƣợc áp dụng vào sản xuất ở

nƣớc ta. Trên cơ sở đó xây dựng quy mô và nội dung đào tạo cho ngƣời lao động ở

từng ngành một cách phù hợp, đón bắt và phục vụ kịp thời nhu cầu về lao động của

các doanh nghiệp. Cần phải có sự kết hợp tốt với doanh nghiệp, nhất là những

doanh nghiệp lớn. Những phản hồi của doanh nghiệp về chất lƣợng đào tạo, việc



106



làm còn trống, yêu cầu về kỹ thuật và các phẩm chất mong muốn đối với ngƣời lao

động là những thông tin cần thiết để xác lập kế hoạch đào tạo theo từng ngành, từng

khu vực.

Tăng cƣờng hơn nữa vai trò của nhà nƣớc trong việc cung cấp đầy đủ và kịp

thời các thông tin cần thiết về chƣơng trình đào tạo. Thông tin rộng rãi về các

chƣơng trình đào tạo sẽ giúp ngƣời lao động có khả năng lựa chọn rộng rãi hơn.

Hiện nay, toàn tỉnh mới có một số trung tâm dạy nghề nhƣ: chi nhánh của

trƣờng Đại học Công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh (xã Tân Bình, huyện Vũ

Thƣ), Trung tâm dạy nghề của Sở Lao động - Thƣơng binh xã hội, một số trung tâm

hƣớng nghiệp, dạy nghề của các huyện và các cơ sở dạy may công nghiệp. Tuy

nhiên, các cơ sở đào tạo nghề vẫn chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu học nghề của lao

động trong tỉnh, trong đó có lao động của doanh nghiệp dệt may tƣ nhân. Do đó,

trƣớc mắt tỉnh cần tập trung vào một số vấn đề sau:

- Phát triển hệ tập trung đào tạo dài hạn chính quy nhằm đào tạo công nhân kỹ

thuật có tay nghề cao, kỹ năng thành thạo có trình độ phù hợp với tiến độ khoa học

kỹ thuật. Nhƣ vậy hệ chính quy không làm nhiệm vụ dạy nghề giản đơn, phổ cập

những công việc cho ngƣời lao động. Theo phƣơng hƣớng này, ngành giáo dục và

dạy nghề phải quản lý thống nhất và hiện đại hóa nội dung, chƣơng trình đào tạo

trong điều kiện trình độ công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ. Các trƣờng dạy nghề

chính quy hoạt động trên cơ sở ngân sách nhà nƣớc. Vì vậy, tỉnh cần đầu tƣ thích

đáng cho phƣơng thức đào tạo này với quan điểm xem đào tạo là một phƣơng thức

đầu tƣ vào nguồn lực, biến thành vốn có hàm lƣợng tri thức cao, chuẩn bị tốt khả

năng làm việc cho ngƣời lao động, xem đó là động lực mạnh mẽ tác động đến kinh

tế xã hội trực tiếp thúc đẩy xã hội phát triển.

- Thống nhất việc quản lý các trƣờng dạy nghề nhà nƣớc vào một đầu mối.

Tiến hành đổi mới nội dung, chƣơng trình phù hợp với tình hình mới, đặc biệt chú

trọng trong công tác thực hành cao từng ngành nghề, đảm bảo tính hiện đại và chất

lƣợng.



107



- Quy hoạch lại hệ thống mạng lƣới các trƣờng đào tạo, tập trung phát triển

các trƣờng đào tạo công nhân kỹ thuật lành nghề bậc cao, đào tạo chuyên môn

nghiệp vụ, khôi phục lại các trƣờng đào tạo trung cấp, công nhân kỹ thuật do nhà

nƣớc bảo trợ, gắn bổ túc văn hoá với dạy nghề.

- Tổ chức các trung tâm dạy nghề gắn với giới thiệu việc làm, nhƣng ngành

lao động phải quản lý và phối hợp toàn bộ hệ thống từ tỉnh đến, huyện, phƣờng, xã,

phải thƣờng xuyên kiểm tra định hƣớng và hỗ trợ biện pháp (nhƣ giải quyết miễn

thuế, lập quỹ bảo trợ học nghề, giao vốn giải quyết việc làm, đầu tƣ cán bộ, cung

cấp thông tin...).

- Tạo mối quan hệ thông tin và công tác phối hợp của hệ thống đào tạo, giải

quyết việc làm toàn thành phố (trung tâm giới thiệu việc làm của sở Lao động Thƣơng binh và xã hội đóng vai trò là nòng cốt thực hiện).

- Chú trọng phát triển các tổ chức đào tạo dân lập, tổ chức đào tạo của các hội

đoàn thể, tổ chức đào tạo kèm cặp nghề tại các doanh nghiệp v.v.. với nhiều hình

thức đa dạng, phong phú nhằm đáp ứng yêu cầu xã hội. Khuyến khích các hình thức

truyền nghề, dạy nghề ở các làng nghề, xã nghề.

- Trong quy hoạch định hƣớng cố gắng bố trí mỗi huyện, thành phố đều có

trung tâm dạy nghề, địa phƣơng và các cụm đông dân cƣ đang hình thành các khu

công nghiệp cần có các trung tâm đào tạo nghề giới thiệu việc làm mang tính chất

khu vực nhƣ huyện Quỳnh Phụ, Kiến Xƣơng, Đông Hƣng. Tỉnh cần sớm hình thành

trung tâm tƣ vấn nghiệp vụ nhằm dự báo và đào tạo những nghề cần phải đầu tƣ

lớn, yêu cầu kỹ thuật cao, các ngành nghề mang tính đặc thù, đồng thời trung tâm

còn có nhiệm vụ hỗ trợ giúp đỡ các trung tâm khu vực, huyện, thành phố về chƣơng

trình kỹ thuật, giáo viên ...

- Có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp có khả năng mở các cơ sở dạy

nghề hoặc các doanh nghiệp liên kết với nhau, liên kết với các cơ sở dạy nghề để

đào tạo đúng đối tƣợng, đảm bảo đạt hiệu quả cao trong công tác đào tạo và sử dụng

nguồn lao động bằng các hợp đồng kinh tế. Tổ chức trợ vốn cho công ty, xí nghiệp

có khả năng đào tạo tại chỗ và thu hút nhiều lao động làm việc ổn định. Nghiên cứu



108



phát triển các tổ chức giới thiệu việc làm, tƣ vấn nghề nghiệp và chuyển giao công

nghệ, đảm bảo tốt đầu vào, đầu ra cho công tác đào tạo nghề.

- Xây dựng đa dạng các mô hình vừa học vừa làm, tăng cƣờng thực hành để

góp phần nâng cao chất lƣợng đào tạo vừa để hóa giải lấn cấn của ngƣời lao động,

giúp cho ngƣời lao động có thu nhập để giải quyết trƣớc mắt vừa trang bị đƣợc nghề

nghiệp tạo tâm lý ổn định trong quá trình theo học.

- Trên cơ sở tổng kết quỹ bảo trợ dạy nghề, nghiên cứu xây dựng quỹ tín dụng

dạy nghề nhằm hỗ trợ giúp đỡ lao động nghèo, lao động thuộc diện chính sách,

những ngƣời thất nghiệp cần đào tạo lại ... có điều kiện học nghề tạo khả năng tìm

kiếm việc làm.

3.3.1.2 Chính sách tiền lương

Tiền lƣơng (tiền công) là nguồn thu nhập chủ yếu, là động lực mạnh mẽ thúc

đẩy ngƣời lao động làm việc với tinh thần hăng say, sáng tạo. Vì vậy nhà nƣớc cần

có giải pháp hữu hiệu đảm bảo lƣơng thực tế, đảm bảo đời sống cho ngƣời lao động.

Việc trả lƣơng trong các doanh nghiệp tƣ nhân chủ yếu dựa trên mức lƣơng tối thiểu

do nhà nƣớc quy định, vì vậy việc xác định tiền lƣơng tối thiểu phải tuân thủ

nguyên tắc đảm bảo giá trị sức lao động. Có nghĩa tiền lƣơng tối thiểu phải đảm bảo

những chi phí tƣ liệu sinh hoạt để duy trì cuộc sống của bản thân ngƣời có sức lao

động và gia đình họ. Tiền lƣơng tối thiểu còn phải đáp ứng yêu cầu chi phí về học

tập và đời sống tinh thần cho ngƣời lao động.

Mức lƣơng tối thiểu do Chính phủ định là sự cụ thể hoá quy định của Bộ Luật

Lao động, có ý nghĩa rất quan trọng trong việc bảo vệ quyền lợi của ngƣời lao động,

là cơ sở để ngƣời sử dụng lao động và ngƣời lao động thoả thuận mức tiền công cao

hơn và giải quyết các quyền lợi khác cho ngƣời lao động theo pháp luật quy định,

tạo điều kiện hình thành giá tiền công trên thị trƣờng, từng bƣớc thực hiện tính

đúng, tính đủ tiền lƣơng trong giá thành và phí lƣu thông trong doanh nghiệp, thúc

đẩy quá trình đổi mới của các doanh nghiệp gắn tiền lƣơng với năng suất lao động,

hiệu quả sản xuất, kinh doanh.



109



Dù đã qua nhiều lần cải cách, nhƣng đến nay chính sách tiền lƣơng vẫn còn

nhiều bất cập. Ngoài vấn đề mức lƣơng tối thiểu thấp và phân biệt giữa các loại

hình doanh nghiệp, còn có vấn đề tiền lƣơng vẫn mang nặng tính bình quân, chƣa

thực sự gắn với năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh, chƣa trở thành

nguồn thu nhập chính của ngƣời lao động.

Tại doanh nghiệp tƣ nhân, mức lƣơng tối thiểu do Nhà nƣớc quy định liên tục

thay đổi từ 350.000 đồng/tháng (2005) lên 450.000 đồng/tháng (2006), lên 540.000

đồng/tháng (2008), lên 650.000 đồng/tháng (2009), lên 730.000 đồng/tháng (2010)

và từ 1-5-2011 là 830.000 đồng/tháng. Trong bối cảnh hiện nay, với tình hình giá cả

không ngừng leo thang, mức lƣơng tối thiểu mới quy định đã phần nào không còn

phù hợp nữa, trên thực tế chƣa bảo đảm đƣợc mức sống cho ngƣời lao động dù là

“tối thiểu” nhƣ đúng nghĩa của nó. Lƣơng tối thiểu quá thấp sẽ hạn chế động lực

làm việc, là nguyên nhân của năng suất thấp. Mọi ngƣời làm việc vì họ không còn

sự lựa chọn nào khác, làm việc với cƣờng độ cao nhƣng vẫn nghèo. Quy luật giá trị

sức lao động đòi hỏi tiền lƣơng phải tái sản xuất mở rộng sức lao động, có nghĩa là

không những đủ sống cho bản thân ngƣời lao động mà còn đủ nuôi con và trang trải

chi phí đào tạo cho họ, để họ đủ sức đảm đƣơng công việc ngày. Nếu không, sẽ chỉ

là tái sản xuất giản đơn sức lao động ở trình độ thấp, và không mang lại hiệu quả

cho doanh nghiệp cũng nhƣ sự phát triển kinh tế - xã hội nói chung.

Vì thế, hàng năm Bộ LĐ - TB - XH cần phối hợp với các bộ, ngành có liên

quan đánh giá mặt bằng mức lƣơng tối thiểu với ngƣời lao động làm việc trong các

doanh nghiệp, có sự điều chỉnh thích hợp thay đổi do biến động của giá trị thị

trƣờng. Tuy nhiên, khó khăn rất lớn là việc tăng lƣơng tối thiểu ở Việt Nam có quá

nhiều ràng buộc với hệ thống an sinh. Nếu nhƣ ở các nƣớc, lƣơng tối thiểu gắn với

yếu tố lạm phát, thƣờng đƣợc điều chỉnh kịp thời dựa trên những thay đổi về chỉ số

giá sinh hoạt, thì ở Việt Nam, lƣơng tối thiểu còn là cơ sở để điều chỉnh lƣơng hƣu,

trợ cấp, bảo hiểm xã hội, trợ cấp thôi việc…Chính vì lẽ đó, trong khi nhiều nƣớc có

thể điều chỉnh mức lƣơng tối thiểu định kỳ hằng năm cho phù hợp với biến động



110



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (136 trang)

×