Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 136 trang )
23%
18%
Công ty TNHH-1
TV
Công ty TNHH
Công ty cổ phần
DNTN
20%
39%
Biểu 2.1: Cơ cấu các doanh nghiệp dệt may ở Thái Bình
phân theo loại hình doanh nghiệp
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình (2010), Số liệu điều tra các
doanh nghiệp đăng ký kinh doanh ở Thái Bình
Hầu hết các doanh nghiệp dệt may ở Thái Bình là các doanh nghiệp có quy
mô vừa và nhỏ (vốn đăng ký dƣới 10 tỷ đồng), chiếm 82,2% tổng số doanh nghiệp
dệt may, chỉ có 26 doanh nghiệp có quy mô lớn nhƣ: xí nghiệp dệt Hồng Quân (vốn
đăng ký là 108 tỷ đồng), công ty cổ phần tập đoàn Đại Cƣờng (vốn đăng ký là 500
tỷ đồng), công ty TNHH sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Minh (vốn đăng
ký là 711 tỷ 732 triệu đồng) [27]…
Năm 2010 mặc dù gặp rất nhiều khó khăn do thiên tai, bão lũ, dịch bệnh xảy
ra liên tiếp, giá cả nguyên liệu tăng khá cao, thiếu nhiều lao động, nguồn năng
lƣợng phục vụ sản xuất thiếu chƣa đáp ứng đủ cho nhu cầu sản xuất đã ảnh hƣởng
trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Song với sự nỗ
lực cố gắng của các doanh nghiệp, sự chỉ đạo kịp thời của Chính phủ cùng với sự
quan tâm của các cấp, các ngành trong tỉnh, các doanh nghiệp dệt may của Thái
Bình năm 2010 đã đạt đƣợc một số kết quả nhất định.
Giá trị sản xuất năm 2010 (giá cố định năm 1994) của ngành đạt 3.256 tỷ
đồng, chiếm 31,9% giá trị sản xuất công nghiệp của toàn tỉnh, tăng 27,8% so với
năm 2009.
54
Tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành năm 2010 đạt 394,325 triệu USD, tăng
44,9% so với năm 2009, chiếm 86,6% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh [24].
Trong đó các doanh nghiệp có giá trị xuất khẩu lớn là:
Bảng 2.1: Giá trị xuất khẩu của một số doanh nghiệp dệt may
ở tỉnh Thái Bình năm 2010
Đơn vị: triệu USD
STT
Tên doanh nghiệp
Giá trị xuất khẩu
1
Công ty CP sản xuất hàng thể thao Maxport
61,7
2
Công ty TNHH Nienhsinh Việt Nam
46,6
3
Công ty TNHH Pooshin Vina
42,8
4
Công ty TNHH Minh Trí
14,4
5
Công ty TNHH Hợp Thành
14,5
6
Công ty TNHH SXKD XNK Nam Long…
12,5
Nguồn: Sở Công thương (2010), Báo cáo tình hình hoạt động doanh nghiệp
dệt may năm 2010 và một số giải pháp phát triển năm 2011
Những thành tựu trên đã tạo điều kiện để đảm bảo hơn nữa lợi ích kinh tế
của ngƣời lao động hoạt động trong các doanh nghiệp dệt may, góp phần đáng kể
nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho ngƣời lao động.
Tuy nhiên các doanh nghiệp dệt may ở tỉnh Thái Bình vẫn còn tồn tại một số
hạn chế nhƣ:
Các doanh nghiệp dệt may chủ yếu làm hàng gia công cho các doanh nghiệp
nƣớc ngoài nên thị trƣờng bị lệ thuộc và chịu thiệt thòi hơn so với doanh nghiệp làm
hàng FOB (mua đứt, bán đoạn). Nhiều doanh nghiệp chƣa ký đƣợc hợp đồng xuất
khẩu trực tiếp, phải ký hợp đồng thông qua các doanh nghiệp xuất khẩu đầu mối.
Giá trị xuất khẩu hàng dệt may tuy chiếm tỷ trọng lớn trong giá trị sản xuất
công nghiệp toàn tỉnh nhƣng do chủ yếu là hàng gia công nên giá trị gia tăng thấp.
Chất lƣợng sản phẩm chƣa cao, chƣa đồng đều, chƣa chủ động đƣợc nguồn
nguyên liệu, năng suất lao động còn thấp.
55
Nguồn nhân lực của ngành dệt may vốn đƣợc coi là một lợi thế của tỉnh, thời
gian vừa qua cũng gặp nhiều khó khăn, nhiều doanh nghiệp thiếu lao động nhất là
các doanh nghiệp trên địa bàn thành phố, gần khu công nghiệp và thị trấn.
Tính cạnh tranh không lành mạnh ở một số doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đã
xảy ra. Phần lớn các chủ doanh nghiệp chƣa đƣợc đào tạo, bồi dƣỡng chuyên môn,
nghiệp vụ, còn thiếu kinh nghiệm và kiến thức quản lý kinh doanh.
Đặc biệt việc thực hiện Bộ luật Lao động chƣa nghiêm túc; thực hiện các chế
độ BHXH, BHYT, BHTN cho ngƣời lao động chƣa đầy đủ đã xảy ra ở không ít
doanh nghiệp dệt may trên địa bàn tỉnh.
Những tồn tại trên đã ảnh hƣởng không nhỏ đến lợi ích kinh tế của ngƣời lao
động trong các doanh nghiệp dệt may đặc biệt là doanh nghiệp dệt may tƣ nhân ở
Thái Bình.
2.2.2 Đặc điểm lao động và sử dụng lao động trong các doanh nghiệp dệt
may ở Thái Bình
2.2.2.1 Đặc điểm nguồn nhân lực của tỉnh Thái Bình
So với các địa phƣơng khác trong cả nƣớc, Thái Bình là một tỉnh có mật độ
dân số cao, đƣợc đánh giá là có lực lƣợng lao động dồi dào, ngƣời lao động cần cù,
chịu khó. Đến nay dân số Thái Bình ƣớc khoảng 2 triệu ngƣời. Trong đó dân số
nông thôn chiếm 90,2%, thành thị chiếm 9,8%; mật độ dân số 1.154 ngƣời/1km2.
Bình quân mỗi hộ gia đình có 3,4 ngƣời. Số ngƣời trong độ tuổi lao động là
1.320.000 ngƣời [5, tr15].
Trong những năm qua, chính sách giải quyết việc làm cho ngƣời lao động của
tỉnh không ngừng đƣợc quan tâm và đã đạt đƣợc những thành tựu đáng kể. Năm
2004, số lao động đƣợc giải quyết việc làm mới là 17 nghìn ngƣời. Năm 2009, số
liệu tƣơng ứng là 30 nghìn ngƣời. Cơ cấu lao động chuyển dịch theo hƣớng tích
cực. Tính đến năm 2009, cơ cấu lao động của tỉnh là: lao động trong lĩnh vực nông lâm - thủy sản chiếm 62.9%; lao động khu vực công nghiệp và xây dựng chiếm
21.5%; lao động khu vực dịch vụ chiếm 15,6% [26].
56
Tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm khoảng 42% tổng lực lƣợng lao động toàn
tỉnh. Trong đó đào tạo nghề chiếm khoảng 29%. Mỗi năm Thái Bình có khoảng
20.000 học sinh tốt nghiệp trung học phổ thông [26]. Đây là lực lƣợng lao động trẻ,
có trình độ văn hoá cơ bản, chƣa có điều kiện học lên bậc học cao hơn. Lực lƣợng
này có thể đƣợc đào tạo ở các trƣờng dạy nghề trong tỉnh hoặc đƣợc đào tạo tại chỗ
ở các đơn vị sản xuất kinh doanh sẽ là nguồn nhân lực quan trọng cho phát triển
kinh tế - xã hội, trong đó có sự phát triển của các doanh nghiệp dệt may.
2.2.2.2 Đặc điểm lao động và sử dụng lao động trong các doanh nghiệp dệt
may ở tỉnh Thái Bình
Khi nghiên cứu các doanh nghiệp dệt may ở tỉnh Thái Bình có thể rút ra một
số nhận xét sau:
Một là, số lượng lao động hoạt động trong các doanh nghiệp dệt may trên
địa bàn toàn tỉnh chiếm tỷ lệ cao trong tổng số lao động trong ngành công nghiệp
chế biến, chế tạo.
Dệt may là ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động, lao động dệt may có xu
hƣớng ngày càng tăng cùng với sự phát triển ngành dệt may tỉnh Thái Bình.
Bảng 2.2: Lao động ngành dệt may ở tỉnh Thái Bình
Năm
Số lƣợng
Tỷ lệ % trên tổng số lao động trong
(nghìn lao động)
ngành công nghiệp chế biến, chế tạo
2005
30
18
2008
40
23
2009
55
32
2010
60
-
Nguồn: Tổng hợp báo cáo của Sở Công thương và Niên Giám Thống kê Thái
Bình (2009).
Quan sát bảng 2.2, theo thống kê của Sở Công thƣơng tỉnh Thái Bình, năm
2005 lao động ngành dệt may có 30.000 lao động chiếm 18% tổng số lao động hoạt
động trong lĩnh vực công nghiệp chế biến; chế tạo toàn tỉnh, thì đến năm 2010 đã là
trên 60.000 lao động. Số lƣợng lao động có xu hƣớng tăng khá trong khoảng 3 năm
57
gần đây, trƣớc đây từ năm 2005 đến 2008, mất 3 năm mới tăng đƣợc 10.000 lao
động thì giai đoạn 2008- 2009 chỉ mất một năm để tăng thêm 15.000 lao động, năm
2009 – 2010 tuy gặp phải khủng hoảng kinh tế nhƣng ngành dệt may vẫn tạo thêm
việc làm cho 5.000 lao động. Cơ cấu lao động trong tỉ trọng lao động chế biến; chế
tạo cũng liên tục tăng, điều này một lần nữa khẳng định vai trò của ngành dệt may
trong việc tạo thêm việc làm cho ngƣời lao động, giảm bớt sức ép việc làm cho
Tỉnh.
Hai là, các doanh nghiệp dệt may trên địa bàn tỉnh sử dụng lao động với
quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu .
Theo số liệu khảo sát của ngành Công thƣơng, tính đến 31/12/2010, trên địa
bàn tỉnh hiện có 146 doanh nghiệp tham gia sản xuất hàng dệt may, sử dụng trên
60.000 lao động. Trong đó quy mô sử dụng lao động nhƣ bảng sau:
Bảng 2.3: Quy mô sử dụng lao động trong các doanh nghiệp
dệt may Thái Bình
STT
Quy mô
Số lƣợng
Tỷ lệ (%)
1
Dƣới 10 lao động
7
4,8
2
Từ 10 đến 49 lao động
23
15,8
3
Từ 50 đến 99 lao động
27
18,5
4
Từ 100 đến 199 lao động
30
20,5
5
Từ 200 đến 300 lao động
33
22,6
6
Từ 300 lao động trở lên
26
17,8
Tổng số
146
100
Nguồn: Liên đoàn Lao động tỉnh Thái Bình(2010), Báo cáo kết quả điều tra
về tình hình lao động.
Nhƣ vậy, xét về quy mô doanh nghiệp theo tiêu chí sử dụng lao động thì các
58
doanh nghiệp dệt may ở Thái Bình chủ yếu là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Ba là, cơ cấu nhóm tuổi lao động trong các doanh nghiệp dệt may ở Thái
Bình chủ yếu là từ 19 đến 29 tuổi; lao động nữ chiếm khoảng 80% lực lượng lao
động toàn ngành.
Trong số các doanh nghiệp dệt may năm 2010 qua Báo cáo Tổng hợp doanh
nghiệp trên địa bàn tỉnh của Sở Kế hoạch và đầu tƣ tỉnh [25] có thể thấy về nhóm
tuổi lao động (LĐ):
+ Dƣới 19 tuổi:
13%
+ Từ 19 tuổi đến 29 tuổi:
52%
+ Từ 30 tuổi đến 39 tuổi:
20%
+ Từ 40 tuổi đến 49 tuổi:
11%
+ Từ 50 tuổi trở lên:
4%
4%
13%
LĐ dưới 19 tuổi
LĐ từ 20 đến 29 tuổi
LĐ từ 30 đến 39 tuổi
52% LĐ từ 40 đến 49 tuổi
LĐ trên 50 tuổi
11%
20%
Biểu 2.2: Cơ cấu lao động trong ngành dệt may ở tỉnh Thái Bình
theo nhóm tuổi
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình (2010), Báo cáo tổng hợp tình
hình doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Trong đó do đặc thù ngành nên tỉ lệ lao động nữ chiếm khoảng 80% tổng số
lao động toàn ngành.
Với đặc điểm lao động dệt may chủ yếu là nữ, đa phần lại là nữ trẻ, có thể thấy
sau khi xây dựng gia đình và luống tuổi thì năng suất, chất lƣợng giảm sút. Hơn nữa
lao động nữ lại có yếu tố sức khỏe và yếu tố tâm sinh lý không ổn định, có nhiều
điều kiện khác biệt nên có thể thấy: tình trạng lao động bỏ việc, tự do chuyển chỗ
làm khá phổ biến. Nhiều doanh nghiệp vừa tuyển đƣợc lớp công nhân mới, lại có
59
lớp cũ bỏ đi làm chỗ khác. Những doanh nghiệp có chính sách đãi ngộ tốt với công
nhân biến động lao động thấp hơn, nhƣng qua theo dõi tỷ lệ đó chỉ đạt 15-20%.
Bốn là, cơ cấu trình độ chuyên môn chủ yếu là lao động nghề sơ cấp, phổ
thông.
Cũng theo báo cáo này về trình độ ngƣời lao động trong ngành dệt may cũng
còn thấp, đa phần là lao động phổ thông, hoặc đào tạo nghề cơ bản.
+ Trình độ đại học (ĐH) và trên đại học:
4%
+ Trung cấp:
9%
+ Công nhân kỹ thuật:
14%
+ Lao động nghề sơ cấp, phổ thông:
73%
4%
9%
14%
Trình độ ĐH và trên
ĐH
Trình độ trung cấp
Công nhân kỹ thuật
Trình độ nghề sơ cấp và
phổ thông
73%
Biểu 2.3: Cơ cấu lao động trong các doanh nghiệp dệt may
ở tỉnh Thái Bình phân theo trình độ chuyên môn
Nguồn: Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Thái Bình (2010), Báo cáo tổng hợp tình
hình doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Về cơ bản lực lƣợng lao động trong các doanh nghiệp dệt may có trình độ
thấp hơn so với mặt bằng trình độ lao động chung trong tỉnh. Có thể nói, trong thời
gian qua tỉnh Thái Bình đã quan tâm và chỉ đạo sát sao tới công tác đào tạo nghề
theo định hƣớng trong khu vực lợi thế, trong đó chú ý tới việc tăng nhanh số lƣợng
lao động tham gia các lớp dạy nghề dài hạn, nhờ đó mà ngƣời lao động dễ dàng tìm
đƣợc một công việc ổn định hơn. Vì thế mà ngƣời lao động, nhất là lao động ở khu
vực nông thôn đã từng bƣớc đƣợc nâng cao tay nghề, có trình độ chuyên môn ổn
định, có điều kiện tìm kiếm việc làm phù hợp hay tự tạo việc làm cho mình theo
những ngành nghề đã đƣợc đào tạo. Tuy nhiên, vẫn chƣa đáp ứng yêu cầu thực tế,
60
đặc biệt với ngành dệt may. Với đặc thù lao động phổ thông là chính, nhu cầu lao
động lớn đã dẫn đến tình trạng lao động chỉ đƣợc đào tạo qua học nghề cơ bản,
thiếu ý thức lao động công nghiệp. Do thiếu lao động, một số doanh nghiệp không
cần cả chứng chỉ đào tạo mà tuyển lao động tự do về tự đào tạo, kèm cặp.
Năm là, công tác quản trị nhân sự trong nhiều doanh nghiệp yếu kém, thiếu
quy chế lao động cụ thể.
Quy chế tiền lƣơng, tiền thƣởng không rõ ràng, minh bạch, khi có tranh chấp
lao động đổ lỗi trách nhiệm cho nhau. Hầu hết các doanh nghiệp dệt may chƣa xây
dựng đƣợc chiến lƣợc nhân sự, lao động vẫn theo kiểu tức thời, quy mô các doanh
nghiệp còn nhỏ lẻ, nên trình độ ngƣời lao động chƣa cao là tất yếu.
Qua phân tích số liệu, chúng ta có thể rút ra những điểm cần lƣu ý về lao động
và sử dụng lao động trong các doanh nghiệp dệt may ở Thái Bình nhƣ sau:
Thứ nhất, sử dụng và tuyển dụng nhiều lao động mà đa số là lực lƣợng lao
động trẻ và đa phần là nữ giới.
Thứ hai, tỷ lệ lao động chƣa qua đào tạo vẫn còn ở mức cao, đây là vấn đề
quan trọng đặt ra cho các doanh nghiệp là phải tiếp tục tăng cƣờng việc bồi dƣỡng,
đào tạo và đào tạo lại tay nghề cho ngƣời lao động để sử dụng máy móc thiết bị,
công nghệ hiện đại nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển doanh nghiệp.
Thứ ba, lực lƣợng lao động trong các doanh nghiệp dệt may thƣờng xuyên
biến động, ngƣời lao động trong doanh nghiệp thƣờng không có mục tiêu dài hạn
trong công việc của mình khi làm tại một doanh nghiệp. Đây cũng là vấn đề hết sức
quan trọng đặt ra cho các doanh nghiệp trong việc sử dụng lao động cho phù hợp,
cũng nhƣ đặt ra cho chính quyền các cấp trong việc giải quyết các vấn đề xã hội lâu
dài.
Thứ tư, thiếu hụt lao động có trình độ cao, đặc biệt là đối với ngƣời lao động
kỹ thuật hoặc lao động có tay nghề ổn định...
Có thể khẳng định rằng trong giai đoạn hiện nay và trong tƣơng lai, ngành dệt
may vẫn sẽ tiếp tục là ngành thu hút đƣợc nhiều lao động ở Tỉnh, tuy nhiên cần có
chính sách với ngƣời lao động nhằm đƣa ngành dệt may phát triển bền vững.
61
2.3 THỰC TRẠNG VIỆC ĐẢM BẢO LỢI ÍCH KINH TẾ CỦA NGƢỜI
LAO ĐỘNG TRONG CÁC DOANH NGHIỆP DỆT MAY TƢ NHÂN Ở TỈNH
THÁI BÌNH
2.3.1 Thực trạng việc đảm bảo lợi ích kinh tế của ngƣời lao động trong
khâu tuyển dụng, kí kết hợp đồng và mức độ ổn định của việc làm
Thời gian qua doanh nghiệp dệt may tƣ nhân ở Thái Bình đã đóng vai trò
tích cực và quan trọng trong việc giải quyết việc làm cho ngƣời lao động ở địa phƣơng. Cùng với đà tăng nhanh về số lƣợng doanh nghiệp dệt may tƣ nhân, quy mô
lao động cũng tăng tƣơng ứng. Nhiều doanh nghiệp dệt may tƣ nhân đã giải quyết
việc làm cho một số lƣợng lao động tƣơng đối lớn nhƣ công ty cổ phần sản xuất
hàng thể thao Maxport (3.467 lao động), công ty TNHH may Hƣng Nhân (1.888 lao
động), xí nghiệp dệt may Hồng Quân (1300 lao động), công ty cổ phần BITEXCO
Nam Long (744 lao động)…[25]. Bên cạnh đó, chất lƣợng lao động cũng đƣợc cải
thiện đáng kể. Do doanh nghiệp tiếp cận với công nghệ sản xuất tiên tiến nên bƣớc
đầu đã có đƣợc đội ngũ cán bộ kỹ thuật và đặc biệt là đội ngũ công nhân có tay
nghề cao và có tác phong công nghiệp.
2.3.1.1 Về tuyển dụng
Hiện nay việc tuyển dụng lao động và đào tạo nghề trong tỉnh vẫn còn nhiều
nhiêu khê, bất cập. Lao động phổ thông đƣợc các doanh nghiệp dệt may tƣ nhân
thông báo tuyển mộ rầm rộ nhƣng cung vẫn không đủ cầu. Còn lao động kỹ thuật,
công nhân lành nghề tốt nghiệp từ những trƣờng đào tạo có chất lƣợng thật sự là
“hàng hiếm” đối với doanh nghiệp. Ngƣợc lại, các trung tâm dịch vụ việc làm,
trƣờng - trung tâm đào tạo nghề thì lại chƣa phát huy hết công suất, đào tạo chƣa sát
với yêu cầu thực tế của doanh nghiệp và thị trƣờng dẫn đến tình trạng phải tái đào
tạo hoặc loại bỏ khi tuyển dụng.
Qua kết quả khảo sát tuyển dụng lao động năm 2010 cho thấy: Hình thức
tuyển dụng lao động trực tiếp của doanh nghiệp chiếm tỷ lệ 73,8%, thông qua trung
tâm giới thiệu việc làm chiếm tỷ lệ thấp: 18,2%, hình thức tuyển dụng khác chiếm
8%; phần lớn kết quả tuyển dụng không đƣợc đăng kí qua sở Lao động – Thƣơng
62
binh – Xã hội. Nhìn chung đội ngũ ngƣời lao động đƣợc tuyển dụng hầu hết còn rất
trẻ, phần lớn có tuổi đời dƣới 35, trên 50% công nhân đƣợc tuyển dụng từ lao động
trong nông nghiệp nên chất lƣợng chƣa đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của quá trình sản
xuất.
Ƣu điểm của việc tuyển dụng lao động trực tiếp của các doanh nghiệp là sát
với yêu cầu của doanh nghiệp, các doanh nghiệp có thể tuyển chọn lao động theo ý
muốn và mang tính cạnh tranh cao. Tuy nhiên, thời gian qua nhiều doanh nghiệp dệt
may tƣ nhân đang gặp nhiều khó khăn trong tuyển dụng lao động. Nhiều doanh
nghiệp không chỉ thông báo tuyển dụng trực tiếp, mà còn đặt hàng tuyển dụng ở các
trung tâm giới thiệu việc làm nằm trên địa bàn tỉnh. Do tình hình thiếu hụt lao động
nghiêm trọng, nên nhiều doanh nghiệp tiếp nhận lao động bất cứ thời điểm nào
trong năm không theo đợt nhƣ trƣớc, về điều kiện tuyển dụng cũng dễ dãi và hạ
thấp hơn về trình độ văn hoá.
Về hình thức các bƣớc tuyển dụng lao động ở mỗi doanh nghiệp có những nét
chung và những nét riêng. Thông thƣờng thì việc tuyển dụng lao động phải xuất
phát từ nhu cầu thực tiễn của đơn vị và tuân thủ theo các bƣớc sau:
Dự báo
và xác
định nhu
cầu
tuyển
dụng
Phân
tích các
công
việc cần
ngƣời và
đƣa ra
các tiêu
chuẩn
tuyển
chọn
Xác
định
nguồn
cung cấp
nhân lực
Tiến
hành các
bƣớc
tuyển
chọn sơ
bộ
Từ chối
ký kết
HĐLĐ
Tiếp
nhận và
thử việc
Sơ đồ 2.1: Các bƣớc tuyển dụng của các doanh nghiệp
63
Ký kết
HĐLĐ
và bố trí
chính
thức
Không phải doanh nghiệp nào cũng lựa chọn quy trình tuyển dụng nhƣ sơ đồ
trên. Song để đi đến quyết định tuyển dụng lao động thì bất kỳ một doanh nghiệp
nào cũng phải dự đoán và xác định nhu cầu tuyển dụng. Cơ sở mà các doanh nghiệp
xác định nguồn cung cấp lao động là thị trƣờng lao động, nơi cung cấp các ứng cử
viên rất đa dạng theo các yêu cầu cũng nhƣ đòi hỏi của doanh nghiệp đề ra.
Theo kết quả khảo sát một số doanh nghiệp trên địa bàn thành phố, gần đây
nhiều doanh nghiệp đã không còn khắt khe, chọn lọc trong tuyển dụng. Từng lúc,
điều kiện hạ thấp dần, mức lƣơng khởi điểm nâng lên, doanh nghiệp nhận trách
nhiệm đào tạo để ngƣời lao động quen với dây chuyền làm việc và tác phong công
nghiệp. Tuy nhiên, số lao động phổ thông tuyển đƣợc gần nhƣ không đáp ứng đƣợc
yêu cầu về số lƣợng. Để giải quyết tình trạng biến động lao động, các doanh nghiệp
trên địa bàn tỉnh trong đó có doanh nghiệp dệt may tƣ nhân đã phối hợp với Sở Lao
động – Thƣơng binh – Xã hội tỉnh thực hiện các khóa đào tạo nghề vừa học vừa làm
cho ngƣời lao động với thỏa thuận đảm bảo đời sống. Tuy nhiên, có nhiều trƣờng
hợp sau khi học việc, ngƣời lao động lại lên Hà Nội hoặc đi các tỉnh ngoài làm việc.
Thực tế cho thấy tại thời điểm này, ngƣời lao động ít quan tâm tới các thông
báo tuyển dụng lao động phổ thông ngành may, thêu, chế biến với nhiều lý do:
lƣơng thấp, công việc nhàm chán, việc làm không phù hợp sức khỏe... Nhiều học
viên các lớp may gia dụng trong đề án đào tạo nghề vui mừng nhận chứng chỉ nghề
máy may nhƣng lại ít quan tâm đến việc làm công nhân may.
Vấn đề khan hiếm lao động phổ thông đã trở thành mối lo ngại của các doanh
nghiệp trực tiếp sản xuất. Ngƣời lao động kêu ca lƣơng công nhân không đủ sống;
doanh nghiệp thì than phiền ngƣời lao động không chịu khó, chƣa làm đƣợc việc lại
đòi hỏi nhiều. Qua thực tế tƣ vấn tuyển dụng, các đơn vị chức năng cho rằng, khác
với trƣớc đây, hiện nay, đa số lao động phổ thông rất kén việc, không bức xúc việc
làm, chƣa có ý thức tự lập, chƣa xác định và hình dung công việc. Động cơ tìm việc
của lao động phổ thông thƣờng mơ hồ, còn tƣ tƣởng thích thì làm, không thì chờ
việc khác. Nhu cầu tuyển dụng lao động phổ thông của các doanh nghiệp ngày càng
64