1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Kinh tế >

4 Kinh nghiệm phát triển thị trường nhà ở cho thuê

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (742.28 KB, 95 trang )


Chính phủ vào lĩnh vực xây dựng nhà ở, xác định trách nhiệm và nghĩa vụ của

tất cả các cơ quan tham gia trong quá trình xây dựng nhà ở. Vì vậy, số lượng

nhà ở xã hội, đặc biệt là nhà ở cho người lao động do các công ty nhà nước

xây dựng luôn cao hơn so với các công ty còn lại. Từ năm 1947 đến năm

1992, quỹ nhà ở xã hội của Hà Lan tăng thêm 4 triệu nhà và về cơ bản đã

thanh toán xong nạn thiếu nhà ở xã hội.

- Gần đây, Hà Lan đã chuyển đổi phương sách quản lý nhà ở cho

người có thu nhập thấp, công nhân. Nhà nước không bao cấp hay hoàn toàn

kiểm soát thị trường như trước, mà để hoạt động trong sự quản lý và điều tiết

của nhà nước. Luật nhà ở sửa đổi tập trung vào những điểm như: ưu tiên hơn

nữa việc thoả mãn nhà ở cho người có thu nhập thấp; Đảm bảo sự tham gia

bình đẳng của các nhà đầu tư trong việc tham gia vào xây dựng quỹ nhà ở xã

hội.

Tóm lại, theo kinh nghiệm của Hà Lan để đáp ứng được nhu cầu về nhà

ở xã hội nói chung, nhà ở cho công nhân nói riêng phải tăng cường sự đóng

góp của toàn dân và của các tập đoàn, doanh nghiệp tư nhân. Vì thế, Hà Lan

là một trong những nước đi đầu trong giải quyết vấn đề nhà ở cho công nhân

lao động.

1.4.1.2 Kinh nghiệm của Trung Quốc.

* Chính sách cải cách và thương mại hoá nhà ở, trong đó có nhà ở cho

người lao động ngoại tỉnh.

Chính phủ đã cung cấp một lượng vốn lớn cho việc phát triển nhà ở, từ

năm 1949. Nhà nước chịu trách nhiệm cấp nhà ở, đặc biệt là đối với cán bộ

công chức được tuyển dụng trực tiếp. Dân cư và lao động ngoại tỉnh hầu hết

đều dựa vào nhà nước để được bao cấp về nhà ở, khiến cho việc phân phối

không công bằng và tham nhũng trở thành phổ biến. Hậu quả dẫn đến công

tác quản lý kém hiệu quả, nảy sinh những tiêu cực ( không đáp ứng được nhu

cầu chính đáng, chất lượng nhà ở kém, tốc độ xuống cấp nhanh...).



29



Trung Quốc cũng đã từng bước tiến hành thương mại hoá toàn bộ quá

trình xây dựng, phân phối và sử dụng nhà ở. Chính quyền địa phương được

trao quyền chủ động phát triển “ nhà rẻ tiền “để phân phối không mất tiền cho

người dân và chủ động việc đánh thuế. Từ năm 1993, luật lệ trung ương yêu

cầu các công ty phát triển bất động sản phải có ít nhất 20% tỷ lệ “nhà rẻ tiền”

trong kế hoạch phát triển hàng năm dành cho người thu nhập thấp, dưới hình

thức thuê hoặc bán.

* Chính sách quản lý nhà ở khác.

Nhà nước thiết lập các quy định quản lý nhà cho thuê với giá thấp, thí

điểm rút kinh nghiệm, sau đó áp dụng cho toàn quốc. Đảm bảo thực hiện công

khai và tính minh bạch trong phân phối nhà ở cho các đối tượng là lao động

ngoại tỉnh có thu nhập thấp với sự kiểm soát của nhà nước cùng với sự thực

hiện chiến lược bao cấp tiền thuê nhà một cách linh hoạt và ít tốn kém hơn so

với chiến lược xây dựng trực tiếp các nhà cho thuê với giá thấp. Tổ chức hợp

tác giữa các công ty nhà đất theo hướng Nhà nước và tư nhân cùng làm.

Bên cạnh đó, Nhà nước đồng thời đi vào thực hiện thí điểm một số mô

hình nhà ở hợp tác xã để bán và cho thuê với mức giá phù hợp với thu nhập

của người lao động có thu nhập thấp. Các mô hình được xây dựng lên nhằm

đáp ưng nhu cầu về ở lâu dài của công nhân, người lao động, được nhân rộng

tại các địa phương có những nguồn lực và điều kiện tương đồng.

1.4.2 Kinh nghiệm của một số tỉnh ở Việt Nam

1.4.2.1 Kinh nghiệm của tỉnh Bắc Ninh

Khu công nghiệp tập trung Bắc Ninh chính thức được khởi công xây

dựng tháng 12/2000. Đến 6/2011, tỉnh Bắc Ninh đã có 6 khu công nghiệp với

251 doanh nghiệp chính thức hoạt động, dự tính đến năm 2015 Bắc Ninh sẽ

xây dựng và đưa vào hoạt động 17 khu công nghiệp với tổng diện tích trên

5.000 ha, thu hút khoảng 30.000 lao động.

Qua khảo sát thực tế, lao động làm việc tại các khu công nghiệp tỉnh

Bắc Ninh bao gồm: 59% lao động ngoại tỉnh, 41% lao động của Bắc Ninh.

30



Lao động trong khu công nghiệp Bắc Ninh về cơ bản là lao động trẻ tuổi bình

quân từ 18 đến 35 tuổi. Trong số lao động trên khoảng 20% có nhà ở, còn lại

80% lao động đều có nhu cầu về thuê nhà ở kể cả người lao động trong tỉnh,

do chế độ làm việc theo ca, thêm giờ, thêm buổi, nhà ở xa nơi làm việc, mất

nhiều thời gian đi lại…

Các công nhân với nhu nhập bình quân khoảng hơn 1.300.000đồng –

1.800.000/ người/tháng, nếu tính theo giá cả hiện nay thì họ không đủ khả

năng mua nhà ở, chỉ có thể thuê nhà. Với tốc độ phát triển các khu công

nghiệp và tình hình gia tăng lao động như hiện nay dự kiến đến năm 2015

tổng số công nhân làm việc trong các khu công nghiệp tập trung ở tỉnh Bắc

Ninh khoảng 50.000 người, ước tính trong số đó có khoảng 50% người lao

động có nhu cầu thuê nhà ở.

Khi quy hoạch các khu công nghiệp, Bắc Ninh có chủ trương đồng

thời cho quy hoạch các khu chung cư, khu dịch vụ hoặc khu đô thị mới liền kề

ngay khu công nghiệp tạo thành quần thể khu công nghiệp – đô thị đồng bộ.

Song hiện tại mới chỉ có một khu công nghiệp Tiên Sơn đã xây dựng bao gồm

khu nhà vườn, khu nhà liền kề, khu chung cư… Tuy nhiên có rất ít người lao

động thuê, nguyên nhân cơ bản là do giá cho thuê cao so với thu nhập của

người lao động. Một căn hộ chung cư tại Tiên Sơn có diện tichs khoảng 65 –

70 m2 khép kín có giá từ 1 đến 1,2 triệu đồng / tháng trong khi công nhân thuê

nhà tại các khu vực xung quanh do người dân xây dựng chỉ có giá bình quân

từ 200.000đồng đến 300.000 đồng/tháng. Nhưng đó là những dãy nhà, phòng

trọ dựng lên tạm, có diện tích khoảng từ 10 – 15 m2, lợp Fibroxi măng, điều

kiện sinh hoạt như nước, điện, nhà vệ sinh không đảm bảo.

Mặt khác giá cả và thời gian thuê không ổn định nguyên nhân do cung

không đủ cầu đã nảy sinh mâu thuẫn chủ nhà cho thuê ép giá, thời gian thuê

không ổn định, an ninh không đảm bảo, các tệ nạn xã hội gia tăng. Công nhân

thuê nhà không đăng ký tạm trú tạm vắng với chính quyền địa phương nên rất

khó kiểm soát.

31



Từ thực tế đó, tỉnh Bắc Ninh đã đưa ra một số giải pháp như sau:

Một là, Việc xây dựng quy hoạch phát triển các khu công nghiệp gắn

liền với phát triển công nghiệp mới với các khu chung cư cho công nhân thuê

để đảm bảo chỗ ở cho người lao động. Tuy nhiên chưa có hiệu quả, chưa phù

hợp với nhu cầu của người lao động có thu nhập thấp, vì vậy việc xây dựng

các khu nhà cho công nhân phải chú ý đến sự phù hợp với giá cả, sao cho phù

hợp với thu nhập của người công nhân.

Hai là, hiện tượng công nhân thuê nhà của tư nhân xung quanh các khu

công nghiệp không đảm bảo chất lượng cần phải có tác động của chính quyền

địa phương cũng như Ban quản lý các khu công nghiệp đối với chủ hộ tư

nhân cho thuê trong việc đảm bảo chất lượng nhà cho thuê theo như hợp đồng

để đảm bảo quyền lợi cho người lao động cũng như sức khỏe và khả năng tái

sản xuất sức lao động.

Ba là, có chính sách khuyến khích và tạo điều kiện để thu hút nhà đầu

tư và tư nhân xây dựng nhà ở cho công nhân thuê với giá rẻ để đảm bảo

nguồn lao động hoạt động của các khu công nghiệp hiện nay của tỉnh.

Với những giải pháp tích cực này, tỉnh Bắc Ninh đã phần nào đáp ứng

được nhu cầu nhà ở cho công nhân tại các khu công nghiệp, đảm bảo điều

kiện ở, sinh hoạt của người công nhân, ổn định xã hội, thúc đẩy sự phát triển

kinh tế - xã hội của tỉnh.

1.4.2.2 Kinh nghiệm của tỉnh Đồng Nai

Đồng Nai là một trong 7 tỉnh có tiềm lực kinh tế, phát triển năng động

nhất trong cả nước, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm phía nam, có vị thế

địa lý thuận lợi để thu hút đầu tư nước ngoài. Tỉnh Đồng Nai có các khu công

nghiệp lớn với sự đầu tư trong nước và quốc tế như: Biên Hòa, Long Bình,

Âm Ta, Nhơn Trạch, Gò Dầu…

Tính đến năm 2010, tỉnh Đồng Nai đứng đầu cả nước về số khu công

nghiệp với tổng diện tích đất tự nhiên là 6.473 ha, với hơn 600 doanh nghiệp

đang hoạt động và sản xuất kinh doanh, thu hút khoảng 600.000 công nhân

32



lao động. Với số đông lao động ngoại tỉnh nhu cầu về nhà ở cho công nhân ở

Đông Nai là rất lớn.

Tỉnh Đồng Nai hiện nay có 61 dự án đăng ký xây dựng nhà ở cho công

nhân thì mới chỉ có 17 dự án hoàn thành và đưa vào sử dụng. Diện tích nhà ở

cho công nhân đã được xây dựng khoảng 65.000m2 giải quyết chỗ ở cho

10.000 lao động, nhà do các công ty kinh doanh xây dựng cho công nhân thuê

ở đạt 40.000m2, dành cho 6.000 người. Ngoài ra, có đến hơn 13.000 cơ sở tư

nhân xây phòng trọ để kinh doanh, với trên 100.000 phòng, đáp ứng khoảng

178.000 nhân khẩu, còn lại là khoảng 15.000 hộ gia đình cho 283.000 lao

động thuê hơn 100.000 phòng trọ bình dân. Nhà được xây dựng chủ yếu là

nhà cấp 4 với các điều kiện sinh hoạt cần thiết. Thị trường nhà ở cho công

nhân mặc dù rất phát triển, muốn giữ chân được người công nhân thì các

doanh nghiệp phải giải quyết được chỗ ở cho công nhân, thế nhưng các doanh

nghiệp không mấy mặn mà với chương trình nhà ở công nhân, bởi việc đầu tư

không thu được lãi (ước tính mỗi công trình phải mâts từ 30 đến 40 năm mới

có thể thu hồi được vốn).

Thực tế hiện nay cũng như ở các tỉnh thành khác, người công nhân ở

Đồng Nai vẫn phải thuê nhà ở của tư nhân xung quanh các khu công nghiệp.

Các nhà trọ này xuất hiện một cách tự phát, và tạm bợ, không đảm bảo điều

kiện sống, điều kiện sinh hoạt cho người công nhân, cũng như những điều

kiện về an ninh.

Mặc dù sự khởi động của các doanh nghiệp đã phần nào đáp ứng được

nhu cầu về nơi ăn chốn ở, taọ điều kiện thuận lợi cho công nhân lao động,

nhưng thực tế nhu cầu nhà ở cho công nhân khu công nghiệp Đồng Nai rất

lớn và xung hướng tăng nhanh do sự phát triển mạnh mẽ của các khu công

nghiệp đã thu hút nguồn lao động lớn lao động ngoại tỉnh đến.

Với lực lượng lao động ngoại tỉnh là chủ yếu, tỉnh Đồng Nai đang thực

hiện chương trình xã hội hóa xây dựng nhà ở cho công nhân tại các khu công

nghiệp. Theo dự kiến đến năm 2015 tỉnh Đồng Nai phải xây dựng hàng triêu

33



m2 nhà ở với số tiền ước tính khoảng 6.000 tỷ đồng để thực hiện nhà ở xã hội

phục vụ người công nhân đáp ứng nhu cầu nhà ở cho khoảng 70% công nhân.

1.4.2.3 Bài học kinh nghiệm phát triển thị trường nhà ở cho thuê

Từ sự nghiên cứu về nhà ở thuê của công nhân khu công nghiệp tỉnh

Đồng Nai đưa ra những kinh nghiệm:

Một là, trong quy hoạch phát triển khu công nghiệp vẫn còn thiếu quy

hoạch phát triển cung ứng nhà ở cho công nhân lao động trong khu công

nghiệp, dù đã đi vào hoàn thành và hoạt động nhưng một số khu công nghiệp

không có qũy đất, không có nguồn vốn để xây dựng nhà ở cho công nhân

thuê.

Hai là, các khu công nghiệp đã có quy hoạch đất và dành một phần vốn

ngân sách cấp cho việc xây dựng nhà ở cho công nhân, trong thực tế các khu

công nghiệp này xây dựng nhà ở cho công nhân thuê vẫn còn rất chậm, do

Ban quản lý khu công nghiệp còn tập trung vào việc thu hút các nhà đầu tư để

phát triển kinh tế và lấp đầy các khu công nghiệp, việc huy động vốn đầu tư

xây dựng nhà ở cho công nhân thuê gặp nhiều khó khăn.

Ba là, các cơ quan chức năng, chính quyền địa phương chưa có cơ chế

quản lý các khu nhà trọ tư nhân, do đó các khu nhà trọ xây dựng tự phát,

không đảm bảo các điều kiện tối thiểu cho cuộc sống của người lao động.



34



CHƯƠNG 2:

THỰC TRẠNG THỊ TRƯỜNG NHÀ Ở CHO CÔNG NHÂN

THUÊ TẠI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TỈNH VĨNH PHÚC

2.1 Tổng quan về các khu công nhiệp tỉnh Vĩnh Phúc

2.1.1 Sự phát triển các khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Phúc

Vĩnh Phúc là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc, giáp thủ

đô Hà Nội, có nhiều tiềm năng và lợi thế về điều kiện tự nhiên và vị trí địa lý,

thuận lợi cho việc hình thành, phát triển các khu công nghiệp nói riêng và

phát triển kinh tế - xã hội nói chung.

Trong chiến lược phát triển công nghiệp, tỉnh Vĩnh Phúc đã xác định

nhiệm vụ trọng tâm là đầu tư, phát triển mở rộng các khu công nghiệp trên địa

bàn. Năm 2010 tỉnh Vĩnh Phúc có 4.500 đến 5.000 ha đất công nghiệp với hệ

thống kết cấu hạ tầng kinh tế kỹ thuật đồng bộ. Vĩnh Phúc đã có chủ trương

hướng vào phát triển các ngành mũi nhọn có tính cạnh tranh cao như ngành

cơ khí chế tạo, điện tử tin học, công nghệ dệt may, chế biến thực phẩm…

trong đó đặc biệt ưu tiên thu hút các dự án công nghệ cao.

Hiện nay, Vĩnh Phúc đang tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, đẩy

mạnh đa dạng hóa các hình thức vận động, đổi mới và nâng cao chất lượng

các hoạt động xúc tiến đầu tư, tăng cường hoạt động thông tin liên lạc, tuyên

truyền chính sách thu hút phát triển công nghiệp chú trọng khuyến khích các

doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài.

Ban quản lý các khu công nghiệp và thu hút đầu tư phối hợp chặt chẽ

với các ngành của tỉnh trong công tác quy hoạch các khu, cụm công nghiệp,

đầu tư xây dựng và phát triển hạ tầng đẩy nhanh tiến độ xây dựng cơ sở vật

chất kỹ thuật các khu công nghiệp, tăng cường công tác quản lý, kịp thời tháo

gỡ những vướng mắc cho các doanh nghiệp đầu tư trên địa bàn. Các khu công

nghiệp trên địa bản tỉnh Vĩnh Phúc đã trở thành điểm quan trọng trong việc

thu hút nguồn vốn đầu tư trong nước và nước ngoài, đã góp phần quan trọng

vào việc thúc đẩy tăng trưởng công nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hoàn

thành mục tiêu kinh tế - xã hội của tỉnh Vĩnh Phúc, phấn đấu đưa Vĩnh Phúc

trở thành tỉnh công nghiệp vào năm 2015.



35



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

×