Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 111 trang )
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Đối với một mạng lưới giao thông công cộng, vị trí nhà ga hoặc trạm đỗ xe
là cả một sự xem xét thận trọng, nhà ga phải tập hợp đủ các yếu tố như thuận
tiện cho hành khách đi lại, thuận tiện trung chuyển giữa các loại tầu, gần hệ
thống công trình công cộng như công viên, cửa hàng, siêu thị, bãi đỗ xe... Trong
khu vực trung tâm, nhà ga Tokyo được xây dựng chỉ cách hoàng cung của Nhật
Bản (trung tâm thành phố) khoảng 1 km, còn lại các ga lớn khác như Ueno,
Nipori, Ikebukuro, Shinjuku, Shibuya, Shinagawa xa nhất cũng chỉ cách hoàng
cung khoảng 6 km. Các nhà ga này vừa là ga khách cho mạng đường sắt nộingoại ô, vừa là ga khách cho mạng đường sắt ngầm. Bên cạnh đó ga Tokyo và
Ueno còn là điểm dừng tàu của tuyến đường sắt cao tốc Shinkansen.
Tại thành phố Tokyo, tuyến đường mô nô ray bánh lốp cao su (TokyoHaneda monorail) hoặc tuyến đường tàu không người lái bánh lốp (Auto guide
Train) có khối lượng vận chuyển hành khách nhỏ nên chỉ có ý nghĩa thu gom
hành khách cho các tuyến đường sắt; Các tuyến này đi gần khu vực vịnh Tokyo
được xem như là phục vụ du lịch và kết hợp chuyển hành khách ra sân bay nội
địa Haneda.
1.4.2. Bài học kinh nghiệm cho Hà Nội
1.4.2.1 Một số kinh nghiệm chung nhằm phát triển dịch vụ Logistics thành phố
Dựa vào việc nghiên cứu quá trình phát triển dịch vụ Logistics ở các thành
phố lớn của Trung Quốc và Nhật Bản nêu trên, có thể rút ra một số yếu tố cần
thiết cho sự phát triển Logistics thành phố ở nước ta nói chung cũng như thành
phố Hà Nội nói riêng như sau:
Cần phải xem xét, đánh giá và xây dựng lại hệ thống các chính sách
phát triển Logistics. Ngoài ra, chính phủ phải có sự điều chỉnh và quy hoạch
hợp lý vị trí các khu vực tự do thương mại, tạo ra sự kết nối tốt hơn giữa hệ
thống cảng biển và sân bay trên toàn quốc. Xây dựng khuôn khổ pháp lý đồng
bộ và thống nhất cho hoạt động Logistics.
Phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng cho hoạt động Logistics, khuyến
khích các doanh nghiệp tư nhân và các doanh nghiệp nước ngoài có tiềm lực đầu
tư, xây dựng. Xây dựng cơ sở hạ tầng đường hàng không, đường biển, đường
bộ cũng như hạ tầng công nghệ thông tin, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho dịch
vụ Logistics thành phố phát triển.
Phải cập nhật những kiến thức luật pháp trong nước và quốc tế về vận
tải đa phương thức, các hoạt động chính của Logistics và kỹ năng vận hành dịch
vụ Logistics cho nguồn nhân lực hiện có.
Phát huy vai trò của các Hiệp hội, đặc biệt Hiệp hội các nhà giao nhận
trong việc đưa ra các sáng kiến phát triển dịch vụ Logistics.
SV: Vũ Thị Ngọc Bích
34
Lớp: Hải Quan 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
1.4.2.2 Một số vấn đề đặt ra đối với Hà Nội nhìn từ kinh nghiệm nước ngoài
Hà Nội là một trong hai trung tâm kinh tế lớn của cả nước, nằm ở vị trí địa
lý rất thuận lợi cho các hoạt động kinh tế xã hội. Là thành phố thủ đô và có vị trí
ở khu vực trung tâm của miền Bắc, bên cạnh con sông Hồng, giao thông từ Hà
Nội đến các tỉnh khác của Việt Nam tương đối thuận tiện, bao gồm cả đường
không, đường bộ, đường thủy và đường sắt. Giao thông đường không, ngoài
sân bay quốc tế Nội Bài cách trung tâm khoảng 35 km, thành phố còn có sân bay
Gia Lâm ở phía Đông, thuộc quận Long Biên, từng là sân bay chính của Hà Nội
những năm 1970, hiện sân bay Gia Lâm chỉ phục vụ cho các chuyến bay dịch vụ
của trực thăng, gồm cả dịch vụ du lịch. Bên cạnh đó là sân bay Bạch Mai thuộc
quận Đống Đa được xây dựng từ năm 1919 và có thời gian đóng vai trò như
một sân bay quân sự.[81] và sân bay quân sự Hòa Lạc tại huyện Ba Vì. Hà Nội là
đầu mối giao thông của năm tuyến đường sắt trong nước và một tuyến liên vận
sang Bắc Kinh, Trung Quốc, đi nhiều nước châu Âu. Các bến xe Phía Nam, Gia
Lâm, Lương Yên, Nước Ngầm, Mỹ Đình là nơi các xe chở khách liên tỉnh tỏa đi
khắp quốc gia theo các quốc lộ 1A xuyên Bắc – Nam, quốc lộ 2 đến Hà Giang,
quốc lộ 3 đến Cao Bằng; quốc lộ 5 đi Hải Phòng, quốc lộ 18 đi Quảng Ninh,
quốc lộ 6 và quốc lộ 32 đi các tỉnh Tây Bắc. Ngoài ra, Hà Nội còn có các nhiều
tuyến đường cao tốc trên địa bàn như đại lộ Thăng Long, Pháp Vân - Cầu Giẽ,
ngoài ra các tuyến cao tốc Hà Nội - Lạng Sơn, Hà Nội - Hải Phòng, Nội Bài Lào Cai, Hà Nội - Thái Nguyên cũng đang trong quá trình xây dựng. Về giao
thông đường thủy, Hà Nội cũng là đầu mối giao thông quan trọng với bến Phà
Đen đi Hưng Yên, Nam Định, Thái Bình, Việt Trì và bến Hàm Tử Quan đi Phả
Lại…
Tuy vậy, Hà Nội còn rất nhiều hạn chế cho việc phát triển dịch vụ Logistics
thành phố. Đặc biệt đáng chú ý là cơ sở hạ tầng giao thông, đường nhỏ, không
hợp lý về quy hoạch, lại thêm số lượng người dân quá đông tập trung hầu hết
vào khu trung tâm. Các con phố của Hà Nội thường xuyên ùn tắc do cơ sở hạ
tầng đô thị thấp kém, lượng phương tiện tham gia giao thông quá lớn – đặc biệt
là xe máy – và ý thức chưa tốt của các cư dân thành phố. Trên những đường phố
Hà Nội, vỉa hè thường bị chiếm dụng khiến người đi bộ phải đi xuống lòng
đường. Trong những năm gần đây, Hà Nội chỉ phát triển thêm 5 tới 10 km
đường mỗi năm. Nhiều trục đường của thành phố thiết kế chưa khoa học, không
đồng bộ và hệ thống đèn giao thông ở một vài điểm cũng thiếu hợp lý. Ngoài ra,
Hà Nội chưa có các trung tâm Logistics ở các thành phố vệ tinh, cảng hàng
không… mà đây đều là những yếu tố rất quan trọng trong việc phát triển hoạt
động Logistics. Các kho bãi chứa hàng đều nhỏ hẹp, không được trang bị công
nghệ tiên tiến. Các doanh nghiệp trên địa bàn Hà Nội, hầu hết là các doanh
nghiệp nhỏ, còn hạn chế về vốn, nguồn nhân lực trong hoạt động Logistics.
SV: Vũ Thị Ngọc Bích
35
Lớp: Hải Quan 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Qua những phân tích trên, có thể khẳng định tiềm năng phát triển Logisitics
thành phố là rất lớn, song muốn phát triển được dịch vụ này, Hà Nội cần:
Xây dựng được các doanh nghiệp lớn hoạt động trong lĩnh vực
Logistics, đạt được trình độ quốc tế về Logistics. Đây sẽ là đòn bẩy rất lớn cho
sự phát triển hoạt động Logistics thành phố ở Hà Nội nói riêng và hoạt động
Logistics ở Việt Nam nói chung.
Đầu tư phát triển mạnh cơ sở hạ tầng cho Hà Nội, đặc biệt là đường
bộ, đường trên không, đường sắt, đường hàng không và các tuyến đường cao tốc
nối với các tỉnh/thành phố lớn. Xây dựng các khu đầu mối giao thông, kho chứa
hàng cần có sự liên hệ, phối hợp chặt chẽ với các ngành Đường bộ, đường sắt,
đường sông để tạo điều kiện cho việc áp dụng khép kín quy trình công nghệ vận
tải đa phương thức và Logistics một cách có hiệu quả.
Xây dựng các trung tâm logistics, đào tạo đội ngũ nhân lực có chất
lượng tham gia hoạt động Logistics. Nâng cao trình độ các nghiệp vụ giao nhận,
vận tải, dịch vụ tài chính, các dịch vụ hậu cần đến của nhân viên của doanh
nghiệp. Lựa chọn loại hình vận tải hợp lý khoa học, kết hợp vận tải đa phương
thức. Nâng cao trình độ logistics cho các hoạt động kinh doanh dịch vụ vận tải,
tối ưu hóa quá trình vận tải.
Trong giai đoạn đầu, cần có chính sách mở cửa thương mại để thu hút
các nhà đầu tư nước ngoài. Để từ đó, có thể áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ
thuật phục vụ và phát hoạt động Logistics thành phố của thủ đô Hà Nội.
SV: Vũ Thị Ngọc Bích
36
Lớp: Hải Quan 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÁC DỊCH VỤ LOGISTICS VÀ
HỆ THỐNG LOGISTICS THÀNH PHỐ HÀ NỘI
2.1. ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN KINH TẾ XÃ HỘI CỦA THÀNH PHỐ HÀ NỘI CÓ
ẢNH HƯỞNG ĐẾN DỊCH VỤ LOGISTICS THÀNH PHỐ
2.1.1. Điều kiện tự nhiên
Thăng Long- Hà Nội nằm ở tọa độ: 21 0 05 vĩ tuyến Bắc, 1050 87 kinh tuyến
Đông, trong vùng tam giác châu thổ sông Hồng, đất đai mầu mỡ, trù phú. được
che chắn ở phía Bắc - Đông Bắc bởi dải núi Tam Đảo và ở phía Tây - Tây Nam
bởi dãy núi Ba Vì - Tản Viên, khoảng cách là 50km. Hà Nội là thủ đô của Việt
Nam, là trung tâm chính trị kinh tế văn hóa lớn nhất của cả nước. Đất Hà Nội
là đất bãi và trên bãi của sông Hồng, do phù sa sông Hồng đắp đổi. Cho nên đất
Hà Nội nội thành, bên Hồ Tây, có dòng Tô Lịch, lại có rất nhiều đầm hồ. Xem
trên bản đồ từ thời xưa cho đến giữa thế kỷ này, thì lãnh thổ Hà Nội là một
vùng đầm lầy, một thành phố sông hồ, nửa đất, nửa nước. Phần lãnh thổ chủ yếu
của Thăng Long – Hà Nội xưa là phần đất bồi, được bao bọc bởi sông Hồng ở
Bắc và phía Đông, bởi sông Tô Lịch và sông Kim Ngưu (nhánh sông Tô) ở phía
Tây và phía Nam.
Khí hậu Hà Nội tiêu biểu cho vùng Bắc Bộ với đặc điểm của khí hậu nhiệt
đới gió mùa ẩm, mùa hè nóng, mưa nhiều và mùa đông lạnh, ít mưa. Thuộc
vùng nhiệt đới, thành phố quanh nǎm tiếp nhận lượng bức xạ Mặt Trời rất dồi
dào và có nhiệt độ cao. Và do tác động của biển, Hà Nội có độ ẩm và lượng mưa
khá lớn, trung bình 114 ngày mưa một năm. Một đặc điểm rõ nét của khí hậu Hà
Nội là sự thay đổi và khác biệt của hai mùa nóng, lạnh. Mùa nóng kéo dài từ
tháng 5 tới tháng 9, kèm theo mưa nhiều, nhiệt độ trung bình 28,1 °C. Từ tháng
11 tới tháng 3 năm sau là khí hậu của mùa đông với nhiệt độ trung bình 18,6 °C.
Cùng với hai thời kỳ chuyển tiếp vào tháng 4 và tháng 10, thành phố có đủ bốn
mùa xuân, hạ, thu và đông. Khí hậu Hà Nội cũng ghi nhận những biến đổi bất
thường. Vào tháng 5 năm 1926, nhiệt độ tại thành phố được ghi lại ở mức kỷ lục
42,8 °C. Tháng 1 năm 1955, nhiệt độ xuống mức thấp nhất, 2,7 °C. Đầu tháng
11 năm 2008, một trận mưa kỷ lục đổ xuống các tỉnh miền Bắc và miền Trung
khiến 18 cư dân Hà Nội thiệt mạng và gây thiệt hại cho thành phố khoảng 3.000
tỷ đồng.
Nằm chếch về phía tây bắc của trung tâm vùng đồng bằng châu thổ sông
Hồng, Hà Nội có vị trí từ 20°53' đến 21°23' vĩ độ Bắc và 105°44' đến 106°02'
kinh độ Đông, tiếp giáp với các tỉnh Thái Nguyên, Vĩnh Phúc ở phía Bắc, Hà
Nam, Hòa Bình phía Nam, Bắc Giang, Bắc Ninh và Hưng Yên phía Đông, Hòa
Bình cùng Phú Thọ phía Tây. Sau đợt mở rộng địa giới hành chính vào tháng 8
năm 2008, thành phố có diện tích 3.324,92 km², nằm ở cả hai bên bờ sông Hồng,
nhưng tập trung chủ yếu bên hữu ngạn.Địa hình Hà Nội thấp dần theo hướng từ
SV: Vũ Thị Ngọc Bích
37
Lớp: Hải Quan 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Bắc xuống Nam và từ Tây sang Đông với độ cao trung bình từ 5 đến 20 mét so
với mực nước biển.Nhờ phù sa bồi đắp, ba phần tư diện tích tự nhiên của Hà
Nội là đồng bằng, nằm ở hữu ngạn sông Đà, hai bên sông Hồng và chi lưu các
con sông khác. Phần diện tích đồi núi phần lớn thuộc các huyện Sóc Sơn, Ba
Vì, Quốc Oai, Mỹ Đức, với các đỉnh như Ba Vì cao 1.281 m, Gia Dê 707 m,
Chân Chim 462 m, Thanh Lanh 427 m, Thiên Trù 378 m... Khu vực nội thành
có một số gò đồi thấp, như gò Đống Đa, núi Nùng.
Theo kết quả tổng điều tra dân số ngày 1/4/2009, dân số Hà Nội là
6.448.837 người và rộng 3.324,92km2, gồm 10 quận, 1 thị xã và 18 huyện
ngoại thành, đứng thứ hai về dân số và đứng đầu cả nước về diện tích, nằm
trong 17 thủ đô có diện tích lớn nhất thế giới. Mật độ dân số Hà Nội hiện nay
cũng như trước khi mở rộng địa giới hành chính, không đồng đều giữa các quận
nội và ngoại thành. Trên toàn thành phố, mật độ dân cư trung bình 1.979
người/km2 nhưng tại quận Đống Đa ( trước đây là quận Hoàn Kiếm), mật độ
lên tới 35.341 người/km2. Trong khi đó, ở những huyện ngoại thành như Sóc
Sơn, Ba Vì, Mỹ Đức, mật độ không tới 1.000 người/km2. Về cơ cấu dân số, theo
số liệu năm 1999, cư dân Hà Nội và Hà Tây khi đó chủ yếu là người Kinh,
chiếm tỷ lệ 99,1%. Các dân tộc khác như Dao, Mường, Tày chiếm 0,9%. Theo
số liệu điều tra dân số ngày 1/4/2009, toàn thành phố Hà Nội có 2.632.087 cư
dân thành thị chiếm 41,2% và 3.816.750 cư dân nông thôn chiếm 58,1%.
2.1.2. Phát triển kinh tế-xã hội thành phố Hà Nội
Vị thế trung tâm kinh tế của Hà Nội đã được thiết lập từ rất lâu trong lịch
sử. Tên những con phố như Hàng Bạc, Hàng Đường, Hàng Than... đã minh
chứng cho điều này. Tới thế kỷ gần đây, với sự phát triển mạnh mẽ của Thành
phố Hồ Chí Minh và khu vực Nam Bộ, Hà Nội chỉ còn giữ vị trí quan trọng thứ
hai trong nền kinh tế Việt Nam.
Hà Nội vào nửa đầu thế kỷ XX còn rất nhỏ. Năm 1954, khi tiếp quản Thủ
đô, Hà Nội chỉ rộng 152 km2, với 53.000 dân sinh sống. Từ đó đến nay, sau
nhiều lần điều chỉnh địa giới hành chính (trong đó có 3 lần mở rộng vào năm
1961; 1978; và 2008), Hà Nội đã có diện tích tự nhiên tới 3.344,7002 km 2 và
dân số là 6.448.837 người. Sự mở rộng phạm vi lãnh thổ đã tạo cho Hà Nội
nhiều cơ hội phát triển cả về kinh tế, xã hội, cơ sở hạ tầng và cảnh quan đô thị.
Xét về quy mô, năm 2011, Hà Nội đứng đầu cả nước về diện tích, thứ hai về dân
số và tổng sản phẩm quốc nội (chỉ sau Tp. Hồ Chí Minh). Nếu năm 2000, GDP
của Hà Nội mới đạt 39.944 tỷ đồng (chiếm 9,04% tổng GDP cả nước), thì đến
năm 2007 đã tăng lên 137.935 tỷ (chiếm 12,06%), và năm 2009 là 205.890 tỷ
đồng (chiếm 12,41%).
Kinh tế Hà Nội trong hai thập niên qua luôn đạt mức tăng trưởng khá cao
so với cả nước, trong đó bình quân giai đoạn 2001-2005 đạt: 11,24%; 2006SV: Vũ Thị Ngọc Bích
38
Lớp: Hải Quan 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2009: 10,22% (cả nước tương ứng là 7,51% và 7,08%). Năm 2009, do tác động
của khủng hoảng và suy thoái kinh tế toàn cầu nên tốc độ tăng trưởng kinh tế
Hà Nội bị chững lại, song vẫn đạt mức cao hơn 23% so với cả nước, chỉ thấp
hơn Tp. Hồ Chí Minh (6,7% so với 5,32% và 8%). Sang năm 2010, tốc độ tăng
trưởng đạt 10,1% so với cùng kỳ năm trước (cả nước: 6,16%), dự báo cả năm
ước đạt khoảng 8%-8,5%, đưa tốc độ tăng trưởng GDP trung bình thời kỳ 20062010 đạt khoảng 9,85% (cả nước 6,96%).
Rõ ràng, trong mọi điều kiện, dù thuận lợi hay khó khăn Hà Nội vẫn duy trì
được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, gấp từ 1,26 – 1,43 lần so với cả nước. Cơ
cấu kinh tế Hà Nội đã chuyển dịch theo hướng giá trị nông, lâm, thủy sản tăng
tuyệt đối (từ 4.154 tỷ đồng/2000 lên 13.003 tỷ/ 2009) nhưng giảm tương đối (từ
10,4% xuống còn 6,3%); tương ứng giá trị công nghiệp vừa tăng tuyệt đối (từ
14.570 tỷ đồng lên 85,297 tỷ đồng), vừa tăng tương đối (từ 36,5% lên 41,3%);
còn ngành dịch vụ, tuy tỷ trọng có giảm nhẹ từ 53,1%/2000 xuống còn
52,4%/2009, nhưng giá trị tuyệt đối vẫn tăng lên 5 lần, từ 21.220 tỷ đồng lên
107.590 tỷ đồng.
Từ năm 2008 tốc độ chuyển dịch cơ cấu bị chậm lại. Tỷ trọng giá trị nông
nghiệp/GDP so với năm 2007 không thay đổi, tỷ trọng công nghiệp/GDP thậm
chí còn giảm 0,2%. Nhưng sang năm 2009, tỷ trọng nông nghiệp/GDP lại giảm
xuống được 0,2%. So với cả nước, cơ cấu kinh tế của Hà Nội tiến bộ hơn rất
nhiều. Số liệu năm 2009 cho thấy, tỷ trọng giá trị công nghiệp-xây dựng và dịch
vụ của Hà Nội đạt 94%/GDP, nhưng cả nước chỉ đạt chưa đầy 80%.
Với nhận thức phải phát triển kinh tế Hà Nội xứng tầm với một Thủ đô
hiện đại, trong hai thập kỷ gần đây Hà Nội đã tập trung nguồn lực để phát triển
nhanh công nghiệp và dịch vụ. Kết quả là, nhiều khu-cụm công nghiệp, điểm
công nghiệp làng nghề ra đời, trở thành trụ cột của sự phát triển kinh tế Thành
phố. Năm 2009, các khu-cụm công nghiệp tạo ra tổng giá trị sản xuất 75.000 tỉ
đồng (chiếm trên 60% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp); còn các cụm
công nghiệp làng nghề cũng tạo ra khoảng 7.000 tỉ đồng/2008 (chiếm 10% tổng
giá trị sản xuất toàn ngành). Sự phát triển của các khu-cụm công nghiệp không
chỉ góp phần nâng cao tỷ trọng giá trị công nghiệp trong GDP, mà còn tạo thêm
nhiều việc làm cho một bộ phận lao động nông thôn trong và ngoài Thành phố.
Hầu hết các tuyến đường, nhất là những tuyến quốc lộ hướng tâm vào
Thành phố như đường Giải Phóng, Nguyễn Văn Cừ, Quốc lộ 32, Láng Hạ, Ngọc
Khánh, Thái Hà, Nguyễn Trãi, Cầu Giấy,… đều đã được mở rộng và nâng cấp
nền đường. Nhiều tuyến đường mới từ 4 – 8 làn xe, với chiều rộng 16-18m đã và
đang được mở thêm, như Láng-Hòa Lạc, Trần Duy Hưng, Kim Liên – Ô Chợ
Dừa, Lê Văn Lương kéo dài… Tính đến 2010, Hà Nội đã hoàn thành về cơ bản
việc xây dựng mới và nâng cấp 3 tuyến đường vành đai, 30 tuyến đường trục
SV: Vũ Thị Ngọc Bích
39
Lớp: Hải Quan 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
chính cùng nhiều tuyến phố khác, đưa tỷ lệ quỹ đất dành cho giao thông đường
bộ tại khu vực nội đô đạt 6-7%, tăng 3 lần so với thời kỳ đầu thập niên 1990
(khoảng 2-3%).
Cùng với việc xây dựng nhiều tuyến đường bộ trọng điểm và nhiều nút
giao thông quan trọng, Hà Nội còn xây dựng nhiều cầu vượt, hầm đường bộ và
một số cầu bắc qua sông Hồng và sông Đuống. Trong số đó, có nhiều công trình
mang tầm vóc thời đại, như: hầm đường bộ Kim Liên và Ngã Tư Sở, cầu Vĩnh
Tuy, cầu Thanh Trì... Cũng trong thời gian này, hệ thống cấp thoát nước của
Thành phố đã được tu sửa lại và xây dựng thêm nhiều công trình mới. Tính ra,
trong 4 năm 2006-2009, số nhà máy sản xuất nước sạch tăng 31,25%; chiều dài
ống dẫn nước tăng 160,78%; sản lượng nước sản xuất bình quân/ngày tăng
29,38%; trạm xử lý nước thải tăng 50%; trạm bơm tăng 750%; và hồ điều hòa
tăng 6,82%... Những kết quả đó đã góp phần không nhỏ vào việc cải thiện điều
kiện sống cho cư dân Thành phố.
Đặc biệt, hệ thống đường dây tải điện, dây cáp viễn thông, dây điện thoại,
internet trên một số tuyến trọng yếu như Kim Mã - Nguyễn Thái Học, Phố Huế
- Hàng Bài, Quán Thánh, Phan Đình Phùng, Văn Cao - Liễu Giai - Nguyễn Chí
Thanh - Trần Duy Hưng… đã được hạ ngầm, trả lại cho đô thị cảnh quan thoáng
đãng. Đồng thời, hệ thống sông, hồ, công viên, vườn hoa…cũng được chỉnh
trang, tu sửa lại, đem lại không gian xanh cho đô thị. Vào năm 2009, diện tích
đất cây xanh bình quân đầu người tại khu vực nội đô đã đạt 5,3 m 2/người, tăng
15,22% so với năm 2007.
Giai đoạn 2000-2009, mức thu nhập bình quân đầu người tại Hà Nội đã
tăng lên 332%, bình quân mỗi năm tăng 33,2% (tương ứng, cả nước tăng 290%
và 29%). Theo thống kê của Thành phố, năm 2010 thu nhập bình quân lên đến
35 – 36 triệu đồng, tăng 10,1% so với năm 2009. Năm 2011, thu nhập bình quân
đầu người của thành phố là 40,7 triệu đồng.
Bảng 2.1: GDP bình quân đầu người của Hà Nội và cả nước
Đơn vị: Triệu đồng
2000
2005
2006
2007
2008
2009
2010
2011
Hà Nội 7,4
15,6
18,4
22,4
28,1
31,8
37
40,7
Cả
nước
10,2
11,7
13,6
17,4
19,3
25,3
27,3
5,7
Nguồn: Tổng cục Thống kê
Thu nhập tăng lên đã làm giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn Thành phố từ 3%/2006
xuống 2,4%/2008 (cả nước giảm tương ứng là 15,47% và 13,4%). Từ năm 2009,
SV: Vũ Thị Ngọc Bích
40
Lớp: Hải Quan 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Hà Nội áp dụng chuẩn nghèo riêng (cao hơn 2 lần chuẩn quốc gia) nên tỷ lệ hộ
nghèo theo chuẩn mới là 6,09% , nhưng năm 2010 giảm xuống còn khoảng
5,4%.
Sự đổi mới dễ nhận thấy nhất là những chung cư kiểu lắp ghép được xây
dựng từ thập kỷ 1970-1980 tại các khu vực Kim Liên, Trung Tự, Giảng Võ,
Thành Công, Thanh Xuân Bắc...đang dần được thay thế bằng các chung cư mới
thoáng mát và tiện nghi, góp phần đáng kể vào ciệc nâng cao chất lượng cuộc
sống cho người dân Hà Nội. Tính đến cuối năm 2009, Hà Nội đã và đang xây
dựng được trên 40 khu đô thị mới với hơn 400 nhà ở cao tầng, trong đó có nhiều
chung cư hiện đại như Trung Hòa-Nhân Chính, Mỹ Đình 1-2, Nam Thăng
Long, Linh Đàm, Ciputra, Văn Khê, Văn Phú, An Khánh, Việt Hưng… Sự phát
triển nhanh chóng của các khu chung cư đã đưa chỉ số diện tích nhà ở bình quân
của người dân đô thị đạt 7-7,5 m2/người/2010 (năm 2003, có 30% dân số Hà
Nội phải sống ở mức 3m2/người).
Đặc biệt, Hà Nội xây dựng thêm nhiều biệt thự, chung cư cao cấp, các tòa
cao ốc văn phòng…, đã tạo cho Thành phố một bộ mặt kiến trúc mới, từng bước
tiếp cận với tiêu chí của một Thủ đô văn minh, hiện đại. Trong đó, có những
công trình tiêu biểu, như: SME Hoàng Gia (Hà Đông), The Pride (đường Lê Văn
Lương), Hà Nội City Complex (Ba Đình), Daewoo (Liễu Giai), Sofitel Plaza
(Hồ Tây), Vincom (Bà Triệu), Viglacera Tower (đường Láng-Hòa Lạc), rồi
Keangnam Hanoi Landmark Tower (đường Phạm Hùng).v.v…
Hiện tại, Hà Nội đang triển khai xây dựng 5 khu đô thị vệ tinh bên cạnh
khu đô thị trung tâm, gồm Sóc Sơn (đô thị công nghiệp, dịch vụ cảng hàng
không), Hòa Lạc (đô thị khoa học và công nghệ cao), Sơn Tây (đô thị văn hóa
lịch sử và du lịch sinh thái), Xuân Mai (đô thị đại học và dịch vụ), và Phú
Xuyên (đô thị công nghiệp và dịch vụ trung chuyển). Những khu đô thị vệ tinh
này sẽ là lối thoát để giảm tải về “sức chứa” cho trung tâm, và giảm sự khác
biệt trong phát triển giữa các khu vực nội và ngoại thành.
Thủ đô Hà Nội là đầu mối giao thông quan trọng của quốc gia nói chung và
của vùng châu thổ sông Hồng nói riêng. Các tuyến đường bộ quan trọng đều
hướng tâm về Hà Nội (Quốc lộ 1, quốc lộ 2, quốc lộ 3, quốc lộ 5, quốc lộ 6,
quốc lộ 32, đường cao tốc Láng – Hòa Lạc) tạo thành mạng lưới hình nan quạt.
Tuy nhiên ở vùng trung tâm của cả mạng lưới chưa có các tuyến đường vành
đai và các trục cát tuyến quốc gia nhằm phân luồng vận tải quá cảnh, để giải
quyết vấn đề tình trạng quá tải cho hệ thống đường chính nội đô Hà Nội, thành
phố đã có quy hoạch về tổ chức các tuyến đường vành đai để giải tỏa lưu lượng
ô tô quá cảnh qua Hà Nội. Với vành đai giao thông đối ngoại (vành đai IV), xây
dựng mới đương vành đai cao tốc kết nối các tuyến đường quốc lộ và cao tốc
hướng tâm, nối các khu công nghiệp, khu đô thị liền kề Thủ đô Hà Nội. Vành
SV: Vũ Thị Ngọc Bích
41
Lớp: Hải Quan 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
đai này sẽ đi qua các khu vực Mê Linh; Đan Phượng, Hoài Đức, Hà Đông,
Thường Tín; Văn Giang, Yên Mỹ, Văn Lâm, Như Quỳnh (Hưng Yên); Tiên
Sơn, Tiên Du, Yên Phong (Bắc Ninh). Vành đai giao thống đối ngoại có quy
mô 6 – 8 làn xe, chiều rộng chỉ giới 100 – 120m. Thời gian xây dựng của đường
vành đai giao thông đối ngoại từ năm 2010 đến năm 2020. Với vành đai liên kết
các đô thị xung quanh Hà Nội (vành đai V), quy hoạch đường vành đai liên kết
các đô thị vệ tinh xung quanh Hà Nội theo hướng tuyến từ thành phố Vĩnh Yên
– thành phố Sơn Tây – đô thị Hòa Lạc – thị trấn Xuân Mai – Miếu Môn – Đồng
Văn - thị xã Hưng Yên – thành phố Hải Dương – Chí Linh – thành phố Bắc
Giang – thành phố Thái Nguyên – hồ Núi Cốc – Tam Đảo – Vĩnh Yên, với
chiều dài khoảng 320km. Xây dựng mới các tuyến đường cao tốc dọc các hành
lang kinh tế quan trọng và các tuyến hướng tâm từ cảng hàng không quốc tế và
các đô thị vệ tinh, đô thị đối trọng kết nối trực tiếp với Thủ đô Hà Nội nhằm
đáp ứng nhu cầu giao thông con lắc giữa thành phố hạt nhân với các thành phố
trong vùng. Quy mô 6 – 8 làn xe, hành lang tuyến 100 – 110m.
Thành phố Hà Nội đang thực hiện các báo cáo quy hoạch xây dựng Thủ đô
đến năm 2030, tầm nhìn 2050 về việc phát triển không gian mặt nước đô thị.
Với tổng chiều dài đường thủy quanh thành phố là 49 km, dòng sông chính của
không gian mặt nước là sông Hồng – một đặc điểm tự nhiên nổi bật của Thủ đô
Hà Nội, đây chính là lợi thế của Hà Nội để phát triển không gian mặt nước đô
thị. Việc phát triển không gian mặt nước đô thị nhằm giảm bớt gánh nặng tắc
nghẽn giao thông hiện tại của trung tâm thành phố và bảo tồn khu phố cổ và
phố Pháp. Ngành công nghiệp sẽ được hưởng lợi ích từ cơ sở hạ tầng hiện tại,
đặc biệt là ngành dịch vụ Logistics thành phố. Chúng ta có thể hoàn toàn sử
dụng không gian mặt nước của khu vực Hà Nội để tạo ra các giải pháp hậu cần,
điều này có thể cung cấp các giải pháp kinh tế hơn mà lại được thực hiện nhanh
chóng để phát triển công nghiệp hiện đại. Không gian đô thị mở - giao thông
đường thủy có thể là phương thức vận tải lựa chọn chính có độ bền vững cao, có
thể hoạt động với không gian đô thị dọc theo bờ sông, đi được các quãng đường
xa như là tới Vịnh Hạ Long.
Sau khi mở rộng địa giới hành chính, với hơn 6 triệu dân, Hà Nội có 3,2
triệu người đang trong độ tuổi lao động. Mặc dù vậy, thành phố vẫn thiếu lao
động có trình độ chuyên môn cao. Nhiều sinh viên tốt nghiệp vẫn phải đào tạo
lại, cơ cấu và chất lượng nguồn lao động chưa dịch chuyển theo yêu cầu cơ cấu
ngành kinh tế. Hà Nội còn phải đối đầu với nhiều vấn đề khó khăn khác. Năng
lực cạnh tranh của nhiều sản phẩm dịch vụ cũng như sức hấp dẫn môi trường
đầu tư của thành phố còn thấp. Việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn chậm, đặc
biệt cơ cấu nội ngành công nghiệp, dịch vụ và các sản phẩm chủ lực mũi nhọn.
Chất lượng quy hoạch phát triển các ngành kinh tế ở Hà Nội không cao và thành
phố cũng chưa huy động tốt tiềm năng kinh tế trong dân cư.
SV: Vũ Thị Ngọc Bích
42
Lớp: Hải Quan 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
2.1.3. Đặc trưng về lịch sử, cảnh quan thành phố
Hà Nội nằm hai bên bờ sông Hồng, giữa vùng đồng bằng Bắc Bộ trù phú.
Với vị trí và địa thế đẹp, thuận lợi, Hà Nội là trung tâm chính trị, kinh tế, văn
hoá và khoa học lớn, đầu mối giao thông quan trọng của Việt Nam. Năm 1010,
Hà Nội được vua Lý Thái Tổ chọn làm kinh đô và đặt tên là Thăng Long với
lòng mong muốn kinh thành ngày càng phồn thịnh như Rồng bay lên. Năm 1831
vua Minh Mạng triều Nguyễn đặt lại tên cho Thăng Long là Hà Nội có nghĩa là:
thành phố nằm trong vòng bao quanh của một con sông giữa đồng bằng Bắc Bộ
trù phú. Nơi đây còn ghi biết bao dấu tích văn hiến của mảnh đất từng là kinh
đô trong suốt ba thời kỳ phong kiến thịnh trị Lý, Trần, Lê và ngày nay là thủ đô
của nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam. Ngày nay, Hà Nội là nơi hội tụ
các cơ quan lãnh đạo của Trung ương Đảng, Quốc hội, Chính phủ, các đoàn thể
xã hội, nơi diễn ra các Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng, các kỳ họp Quốc
hội, mà từ đó đã đưa ra các nghị quyết, đường lối, sách lược đối nội và đối ngoại
cho từng giai đoạn xây dựng và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Là đất kinh đô ngàn năm văn hiến, văn hoá Hà Nội hội tụ kết tinh, tinh tuý
văn hoá của mọi miền đất nước. Hệ thống di sản văn hoá vật thể và phi vật thể
của Hà nội phong phú, đa dạng và mang đậm bản sắc của người Tràng An. Hiện
nay, trụ sở trung ương các hội văn học - nghệ thuật, các hội khoa học - kỹ thuật,
các xưởng phim, nhà hát quốc gia của các bộ môn nghệ thuật tập trung rất nhiều
tại đây. Về số lượng nhà bảo tàng, thư viện, nhà văn hóa, câu lạc bộ, rạp hát,
chiếu bóng, hiệu sách,... di tích lịch sử văn hóa, kiến trúc và cách mạng, Hà Nội
đứng hàng đầu. Vốn nghệ thuật dân gian truyền thống cũng đang được quan
tâm bảo tồn và phát huy. Hà Nội là một trong những địa phương đi đầu trong cả
nước về xây dựng nếp sống văn minh và gia đình văn hóa mới. Có thể nói, văn
hoá Hà nội với các giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể đã trở thành một biểu
tượng của văn hoá Việt Nam. Hà Nội - trái tim của đất nước, thành phố hoà bình
- đã được biết đến với những tinh hoa văn hoá ngàn năm. Các địa danh nổi tiếng
của Hà Nội như: Khu phố cổ - nơi lưu giư dấu ấn của một "Hà Nội ba mươi sáu
phố phường" thủa xưa; Thành cổ Thăng Long vừa mới phát lộ trong cuộc khai
quật khảo cổ có quy mô lớn nhất Đông Nam Á những năm đầu thế kỷ XXI;
Thành Cổ Loa, một trong những toà thành cổ nhất ở các nước Đông Nam Á;
Chùa Một Cột thanh thoát như đoá hoa sen; Trường đại học lâu đời nhất Việt
Nam - Văn Miếu Quốc Tử Giám hay Hồ Hoàn Kiếm, Quảng trường Ba Đình
lịch sử…Việc mở rộng địa giới thành phố, Hà Nội đã có thêm trên 200 làng
nghề (do việc sát nhập với Tỉnh Hà Tây cũ) với những sản phẩm đặc sắc và
được nhiều người ưa chuộng như lụa Vạn Phúc, sơn mài - Duyên Thái, tiện gỗ Nhị Khê, thêu - Quất Động, nón Chuông, quạt Vác, khảm trai Chuyên Mỹ, hàng
mây tre Phú Vinh, đồ mộc Chàng Sơn, Sơn Đồng, may Trạch Xá, đàn Đào Xá,
mộc Đại Nghiệp…và một số khu du lịch khác như khu du lịch quốc gia Chùa
SV: Vũ Thị Ngọc Bích
43
Lớp: Hải Quan 50
Chuyên đề thực tập tốt nghiệp
Hương, Vườn quốc gia Ba Vì, ao Vua, Khoang xanh, suối Hai, Đồng Mô, Thiên
Sơn - Suối Ngà (suối Ổi), Suối Ngọc - Vua Bà, Bằng Tạ, Đầm Long, hồ Quan
Sơn, Đồng Xương, Văn Sơn, lăng Ngô Quyền, lăng Phùng Hưng, thành cổ Sơn
Tây…
Tinh hoa văn hoá của đất kinh kỳ còn là những di sản văn hoá phi vật thể có
trữ lượng khá lớn, phản ánh một cách phong phú, đa dạng và chân thực truyền
thống sinh hoạt văn hoá của người Hà Nội. Văn hoá phi vật thể Hà Nội là tổng
hoà các yếu tố giao lưu, hội nhập, dung hoà, tiếp biến, cởi mở, linh hoạt, để tạo
nên bản sắc Thăng Long - Hà Nội, một vùng đất "hội thuỷ, hội nhân và hội tụ
văn hoá vô cùng phong phú và đa dạng". Trong kho tàng văn hoá phi vật thể Hà
Nội các giá trị về văn hoá ẩm thực chiếm một vị trí đáng kể. Chính những giá trị
này đã góp phần sâu sắc để định hình nên bản sắc văn hoá Hà Nội, phong vị Hà
Nội. Những giá trị văn hoá ngàn năm của Hà Nội đã và đang được bảo tồn, phát
triển, trở thành thế mạnh để Hà nội thu hút du khách trong và ngoài nước đến
thăm quan và tìm hiểu. Chính vì vậy, trong những năm qua Hà Nội luôn giữ
vững vị trí là một trong hai trung tâm du lịch lớn nhất cả nước.
2.2. PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ LOGISTICS TRÊN ĐỊA
BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI THỜI GIAN QUA
2.2.1. Thực trạng phát triển dịch vụ vận tải
Dịch vụ Logistics thành phố phát triển nhất trên địa bàn Hà Nội hiện nay là
dịch vụ vận chuyển hàng hóa, chiếm khoảng 60 - 70% tổng doanh thu của các
dịch vụ Logistics nói chung. Số lượng phương tiện và khối lượng hàng hóa vận
chuyển trên địa bàn Hà Nội tăng nhanh trong những năm qua. Theo số lượng
thống kê về phương tiện vận tải trên địa bàn Hà Nội, hiện có khoảng 26.000 xe ô
tô chở hàng hóa, 423 tàu chở hàng đường sông và 67 tàu chở hàng đường biển.
Khối lượng hàng vận chuyển trên địa bàn Hà Nội năm 2010, đạt gần 126 triệu
tấn, bằng 18,4% tổng khối lượng hàng hóa vận chuyển của cả nước.
Vận tải đường bộ chiếm tỉ trọng cao nhất và cũng có tốc độ tăng trưởng
cao nhất (đạt 103.116.000 tấn năm 2009) do địa hình Hà Nội là điểm giao cắt
của nhiều tuyến đường quốc lộ kéo dài, thuận lợi cho ô tô đi lại giữa các vùng
miền. Tuy nhiên, hình thức vận tải đường bộ vẫn còn nhiều bất cập. Khả năng
bảo trì và phát triển đường bộ còn thấp, dường không được thiết kế để vận
chuyển container, các đội xe tải chuyên dùng hiện đang cũ kỹ. Nhiều tuyến
đường đã xuống cấp nghiêm trọng, gây khó khăn trong cả mùa mưa và mùa
nắng, hiện tượng tắc đường dẫn đến việc lãng phí thời gian, tăng chi phí và
giảm tính hiệu quả. Vận tải đường sắt có xu hướng giảm một phần do năng lực
vận tải đường sắt không đựơc vận dụng hiệu quả do chưa được hiện đại hóa. Tỷ
trọng hàng hóa vận chuyển hàng hóa bằng đường hàng không vẫn là một con
số rất khiêm tốn do chi phí cao và điều kiện cơ sở vật chất, Hà Nội chưa có
SV: Vũ Thị Ngọc Bích
44
Lớp: Hải Quan 50