Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 129 trang )
Trong lĩnh vực QHCC, rất nhiều chuyên gia cho rằng, việc xây dựng,
duy trì, phát triển mối quan hệ (relationship) là một trong những chức năng
chính của nghề này. Ferguson (1984) là học giả đầu tiên trong lĩnh vực
QHCC kêu gọi việc coi mối quan hệ là đơn vị nghiên cứu trọng tâm của lĩnh
vực QHCC. Khảo sát 171 bản tóm tắt và các nghiên cứu toàn văn trên tạp
chí khoa học “Public Relations Review” từ năm 1975 đến năm 1984,
Ferguson đã đề nghị phải có một định nghĩa thống nhất về mối quan hệ, và
gợi ý có thể phân tích một mối quan hệ dựa trên các yếu tố như: động/ tĩnh,
mở/ đóng, hài lòng/ không hài lòng… (Huyen, 2009).
Hưởng ứng lời kêu gọi của Ferguson, hàng loạt các nhà khoa học về
QHCC đã bắt tay tìm kiếm các định nghĩa về mối quan hệ - đơn vị nghiên
cứu được coi là quan trọng nhất của lĩnh vực QHCC. Có rất nhiều góc độ
tiếp cận khác nhau được đăng tải trên các tạp chí chuyên ngành. Chẳng hạn,
tiếp cận từ góc độ ảnh hưởng của mối quan hệ, Ledingham and Bruning
(1998) định nghĩa mối quan hệ là “tình trạng tồn tại giữa một tổ chức và các
nhóm công chúng chủ yếu của nó trong đó hành động của mỗi bên đều ảnh
hưởng đến kinh tế, xã hội, chính trị hoặc đời sống văn hóa của bên kia”.
Trong khi đó, từ góc độ đặc điểm của mối quan hệ, Huang (1998) thì cho
rằng mối quan hệ là “mức độ mà một tổ chức và công chúng của nó tin
tưởng lẫn nhau, chấp nhận việc bên nào có quyền gây ảnh hưởng đến bên
kia nhiều hơn, mức độ hài lòng về nhau, và cam kết hợp tác với nhau”.
Những yếu tố trong định nghĩa này đã được Huang (1998) xác định thang đo
lường, đánh giá mức độ cụ thể. Định nghĩa này cũng được giới nghiên cứu
đánh giá rất cao và liên tục sử dụng trong nhiều công trình nghiên cứu
QHCC về sau.
Đặc điểm Mối quan hệ
27
Mối quan hệ nhà báo – nhân viên QHCC được hình thành qua quá
trình hợp tác, làm việc cùng nhau. Cả hai bên, đặc biệt là nhân viên QHCC
luôn muốn xây dựng mối quan hệ này theo hướng hợp tác, cởi mở, bình
đẳng, hai bên cùng có lợi. Trong quá trình nghiên cứu về mối quan hệ nói
chung, các nghiên cứu của phương Tây đã đưa ra bốn yếu tố đóng vai trò
như một cấu trúc cơ bản trong quan hệ truyền thông, đó là: sự tin tưởng, sự
kiểm soát lẫn nhau, sự hài lòng và cam kết với nhau trong mối quan hệ.
Chúng ta có thể tìm thấy 4 yếu tố này được trình bày rất rõ trong nghiên cứu
của J. E. Grunig & Huang (2000). Bên cạnh đó, những đặc điểm liên quan
này xuất hiện thường xuyên và thống nhất trong các nghiên cứu về các mối
quan hệ giữa người với người và mối quan hệ giữa các tổ chức: Tin tưởng
(L. A. Grunig, J. E. Grunig, & Ehling, 1992; Stafford & Canary, 1991),
Kiểm soát lẫn nhau (Burgoon & Hale, 1984, 1987; Canary & Spitzberg,
1989; Canary & Stafford, 1992; Ferguson, 1984; Stafford & Canary, 1991),
Cam kết, trách nhiệm với nhau (Aldrich, 1975, 1979; Burgoon & Hale,
1984, 1987; Canary & Spitzberg, 1989; Canary & Stafford, 1992), và Sự hài
lòng (Ferguson, 1984; L. A. Grunig et al., 1992). Ngoài ra, từ những nghiên
cứu của Bond & Hwang (1986) Hwang, (1987) Yang (1981) về mối quan hệ
trong xã hội Trung Hoa, Huang (2001) đã khái quát lại những đặc điểm của
mối quan hệ thành 5 đặc điểm cơ bản sau đây:
Sự tin tƣởng lẫn nhau
Khi tìm hiểu về mối quan hệ giữa nhà báo và nhân viên QHCC,
Canary và Cupach (1988) đã quan niệm sự tin tưởng như là “một sự sẵn
sàng thử thách bản thân mình bởi vì các đối tác quan hệ được coi là nhân từ
và trung thực”. Còn Morgan và Hunt (1994) lại xác định sự tin tưởng là
“hiện tại, khi một bên có sự tự tin về độ đáng tin cậy và tính toàn vẹn của
28
đối tác trao đổi”. Tổng hợp lại, trong mối quan hệ giữa nhà báo và nhân viên
QHCC, sự tin tưởng thể hiện ra ở sự tự tin và sự sẵn sàng mở rộng chính
mình để giao tiếp một cách công bằng và thẳng thắn với bên kia. Vì vậy,
Hon và J. E. Grunig (1999) xác định sự tin tưởng là “mức độ tự tin và sẵn
sàng của một bên để cởi mở bản thân mình với bên kia”.
Niềm tin luôn là một cấu trúc quan trọng trong lĩnh vực QHCC.
Bruning và Ledingham (1999) đã khái quát sự tin tưởng như là 1 trong 9
khía cạnh trong hoạt động QHCC trong tổ chức, doanh nghiệp
(Organizational Public Relations – OPR). Tương tự như vậy, L. A. Grunig,
J. E. Grunig và Ehling (1992) nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tin tưởng và
sự tín nhiệm, bởi vì chính sự tin tưởng từ công chúng cho phép một tổ chức
tồn tại.
Sự tin tưởng cũng là một khái niệm quan trọng trong mối quan hệ
giữa các cá nhân (Canary & Cupach, 1988) và giữa các tổ chức. Một vài
nghiên cứu đã xem xét sự tin tưởng và thiếu tin tưởng trong các mối quan
hệ. Nghiên cứu cửa Huang (1999) đã chứng minh rằng ngoài sự kiểm soát
lẫn nhau, sự tin tưởng là yếu tố quan trọng thứ hai trong OPRA (Đánh giá
QHCC trong tổ chức, doanh nghiệp): Niềm tin giữa một tổ chức và công
chúng của tổ chức ấy có thể gián tiếp điều chỉnh hiệu quả của các chiến lược
giải quyết xung đột trong QHCC. Để cụ thể hơn, các dữ liệu thực nghiệm đã
cho thấy rằng việc sử dụng truyền thông hai chiều cân xứng kể trên có thể
tạo nên và củng cố sự tin tưởng trong OPR.
Mức độ kiểm soát lẫn nhau
Hai nhà nghiên cứu Stafford và Canary (1991) đã định nghĩa sự kiểm
soát lẫn nhau trong mối quan hệ giữa con người hoặc giữa các nhóm người
là mức độ mà người ta thỏa thuận xem ai là người nên quyết định các mục
29
tiêu của mối quan hệ và phép ứng xử. Khái niệm kiểm soát lẫn nhau cũng
tương tự như các khái niệm khác được đánh giá là rất quan trọng trong giao
tiếp như khái niệm “có đi có lại” trong nghiên cứu của Aldrich (1975, 1979),
“sự phân chia quyền lực trong mối quan hệ” của Ferguson’s (1984), và “sự
trao quyền” trong khái niệm của Moore (1986). Hon và J. E. Grunig (1999)
xác định sự kiểm soát lẫn nhau là “mức độ mà các bên đồng ý về (những)
người có quyền lực hợp pháp để ảnh hưởng đến ngưới khác”. Về bản chất, ý
thức kiểm soát lẫn nhau giữa các bên đối lập nhau trong một mối quan hệ là
rất quan trọng đối với tính phụ thuộc và tính ổn định trong mối quan hệ
(Stafford & Canary, 1991). Hơn nữa, khái niệm về sự kiểm soát lẫn nhau là
sự phù hợp trong việc thực hiện các mối quan hệ nằm trong QHCC, đặc biệt
trong việc xây dựng quan hệ với giới truyền thông hoặc đạo đức nghề
nghiệp của nhân viên QHCC.
Nghiên cứu của Huang (1999) đã chỉ ra rằng sự kiểm soát lẫn nhau là
một trong hai yếu tố chính tác động gián tiếp đến QHCC trong chiến lược
giải quyết xung đột (yếu tố chính khác là sự tin tưởng). Cụ thể hơn, Huang
đã chứng minh rằng việc sử dụng truyền thông hai chiều cân xứng (twoways symmetrical communication) có thể tạo ra sự kiểm soát lẫn nhau một
cách hiệu quả trong các mối quan hệ. Sự kiểm soát lẫn nhau có thể tạo cảm
hứng cho công chúng đối lập tìm kiếm các giải pháp sáng tạo và cùng có lợi
hoặc tìm kiếm sự hỗ trợ từ bên thứ ba để giải quyết cuộc xung đột. Tóm lại,
để một mối quan hệ ổn định, tích cực, việc kiểm soát lẫn nhau giữa các bên
nên tồn tại ở một mức độ nào đó.
Mức độ cam kết hợp tác trong mối quan hệ
Quan hệ cam kết (Relational commitment) trong mối quan hệ nhà báo
và nhân viên QHCC được Hon và J. E. Grunig (1999) định nghĩa là “mức độ
30
mà một bên tin tưởng và cảm thấy rằng mối quan hệ là xứng đáng để để duy
trì và thúc đẩy”. Trong nghiên cứu này, hai khía cạnh của sự cam kết cho
một OPR đã được nhấn mạnh: cam kết tình cảm và cam kết duy trì. Morgan
và Hunt (1994) định nghĩa sự cam kết trong quan hệ là một đối tác trao đổi
tin rằng một mối quan hệ đang diễn ra với người khác là rất quan trọng để
đảm bảo những nỗ lực tối đa trong việc duy trì nó, có nghĩa là các bên cam
kết tin rằng mối quan hệ đó đáng để thúc đẩy và giữ gìn để đảm bảo rằng nó
tồn tại lâu dài. Họ cũng trích dẫn Moorman, Zaltman, và Deshpande (1992),
nhấn mạnh rằng sự cam kết cho một mối quan hệ là “một mong muốn lâu
dài để duy trì một mối quan hệ có giá trị”, và kết luận rằng sự cam kết là
trung tâm đối với mối quan hệ tổ chức và các đối tác khác nhau của nó.
Tương tự, sự cam kết được xem xét như là một chỉ số hiệu quả của
các mối quan hệ nội bộ trong việc thiết lập các mối quan hệ. Ví dụ, sự cam
kết lúc nào cũng gắn chặt với công dân có tính tổ chức cao, việc tuyển dụng
và tiến hành đào tạo và việc hỗ trợ tổ chức (Morgan & Hunt, 1994). Trong
các mối quan hệ dịch vụ, Berry và Parasuraman (1991) đã khẳng định rằng
các mối quan hệ được xây dựng trên nền tảng là sự cam kết lẫn nhau.
Morgan và Hunt quan niệm về lòng trung thành với thương hiệu như là một
hình thức cam kết.
Mức độ hài lòng trong mối quan hệ
Không giống như sự kiểm soát lẫn nhau và sự tin tưởng vốn xuất phát
từ nhận thức của con người, sự hài lòng về mối quan hệ (relational
satisfaction) trong mối quan hệ giữa con người nói chung, giữa nhà báo và
nhân viên QHCC nói riêng gắn với tình cảm và cảm xúc. Hon và J. E.
Grunig (1999) đã định nghĩa sự hài lòng của các mối quan hệ là “mức độ mà
một bên cảm thấy thỏa mãn với các bên khác do sự kỳ vọng theo hướng tích
31
cực về mối quan hệ được tăng cường”. Tương tự như vậy, Hecht (1978)
quan niệm sự hài lòng cũng giống như sự phản ứng của tình cảm một cách
thuận lợi để làm tăng cường những mong muốn, suy nghĩ tích cực trong một
hoàn cảnh thực tế nhất định. Họ cũng chỉ ra rằng việc nhận thức được sự
duy trì cách cư xử của các đối tác làm tăng sự hài lòng của người đó với mối
quan hệ, và do đó, họ kết luận sự hài lòng trong quan hệ có thể là dấu hiệu
duy trì quan hệ hiệu quả.
Tầm quan trọng của sự hài lòng trong mối quan hệ nói chung và mối
quan hệ giữa nhà báo và nhân viên QHCC nói riêng là một đặc tính quan
trọng quyết định đến tính thân mật, gắn kết của mối mối quan hệ, điều này
đã được thừa nhận rộng rãi (Ferguson, 1984; Millar & Rogers, 1976;
Stafford & Canary, 1991). Theo đề nghị của Hendrick (1988), sự hài lòng
của các mối quan hệ là một trong những lĩnh vực chính của việc đánh giá
mối quan hệ, với nhiều biện pháp để đánh giá cảm xúc, suy nghĩ, hoặc hành
vi trong các mối quan hệ thân tình.
Giữ thể diện cho nhau
Đặc điểm thứ 5 phản ánh mức độ gắn kết, thân thiết trong mối quan
hệ giữa giữa tổ chức và các nhóm công chúng của nó nói chung, giữa nhân
viên QHCC của doanh nghiệp và nhà báo nói riêng là việc giữ gìn thể diện
hoặc sĩ diện, danh dự cho nhau. Đặc điểm này ảnh hưởng lớn đến các mối
quan hệ trong không gian văn hóa phương Đông.
Như trên đã đề cập, Huang (2001) đã khái quát lên đặc điểm thứ 5 này
thông qua các công trình nghiên cứu của Bond và Hwang (1986), Hwang
(1987), Yang (1981) về mối quan hệ trong xã hội Trung Hoa, cũng từ đó
Huang khẳng định rằng những đặc trưng về quan hệ xã hội của các nền văn
hóa nói chung, của nền văn hóa phương Đông nói riêng có ảnh hưởng đến
32
tính chất của các mối quan hệ ít nhiều. Những kết luận đó được minh chứng
qua các nghiên cứu về quan hệ xã hội trong nền văn minh Trung Hoa, một
trong những nền văn minh có ảnh hưởng lớn trong khu vực châu Á nói
chung, Việt Nam nói riêng.
Cụ thể, qua phân tích tâm lý xã hội của người dân Trung Hoa, Bond
và Hwang đã nhận thấy ảnh hưởng từ các yếu tố, giáo lý của Nho giáo trong
các mối quan hệ xã hội cũng như trong suy nghĩ, lối sống và tâm lý của
người Trung Hoa. Họ nhận thấy rằng trong xã hội Trung Hoa, con người tồn
tại thông qua và được xác định bởi các quan hệ của họ với những người
khác. Những mối quan hệ này được cấu trúc một cách có thứ bậc, tôn ti, và
trật tự xã hội được đảm bảo thông qua những yêu cầu về sự tôn trọng vai trò
của mỗi bên trong các mối quan hệ.
Nghiên cứu này của Hwang cũng cho thấy rằng, muốn xây dựng mối
quan hệ với người khác thì tình cảm là thứ cần được cho đi, và một trong
những điều quan trọng nhất của việc giữ gìn và phát triển mối quan hệ đó là
giữ thể diện, danh dự cho đối tác. Đó là những điểm mấu chốt để tạo dựng
một mối quan hệ tốt đẹp trong xã hội Trung Quốc nói riêng, cũng như một
số nước phương Đông nói chung, trong đó có Việt Nam chúng ta.
1.2.2 Ảnh hƣởng của yếu tố ”duy tình” tới mối quan hệ giữa nhân
viên QHCC và nhà báo
Có rất nhiều yếu tố khác nhau gây ảnh hưởng đến các mối quan hệ
giữa các nhóm người trong xã hội. Từ góc nhìn lý luận về QHCC, các nhà
nghiên cứu đã đề cập đến các yếu tố cơ bản có ảnh hưởng lớn đến các mối
quan hệ giữa tổ chức và các nhóm công chúng của nó. Cụ thể là các yếu tố
văn hóa, chính trị, xã hội, môi trường truyền thông, cấu trúc của tổ chức
(organizational structure)… QHCC là một bộ phận không thể tách rời và
33
đồng thời cũng không nằm ngoài tầm ảnh hưởng, tác động của các yếu tố
chính trị, kinh tế, xã hội và đặc biệt là văn hóa... Hoạt động truyền thông của
các doanh nghiệp, tổ chức trên thế giới cũng như ở Việt Nam đều chịu ảnh
hưởng, tác động của nhiều yếu tố bên trong cũng như bên ngoài chính vì vậy
việc xây dựng mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo cũng chịu tác
động lớn bởi các yếu tố này. Các yếu tố này có tác động gián tiếp đến việc
xây dựng mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo. Nó có thể thúc đẩy
hay kìm hãm việc xây dựng, phát triển mối quan hệ này.
Mọi mối quan hệ của con người trong xã hội đều bị chi phối bởi các
đặc trưng văn hóa trong xã hội mà con người ta đang sống. Vì vậy, muốn tìm
hiểu về mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo thì không thể bỏ qua
những đặc trưng văn hóa ảnh hưởng đến mối quan hệ này, hay nói một cách
khác hơn thì mối quan hệ này cần được nghiên cứu, tìm hiểu dưới góc nhìn
văn hóa.
Năm 1871, E.B. Tylor đưa ra định nghĩa “văn hóa là một chỉnh thể
phức hợp bao gồm các kiến thức, niềm tin, nghệ thuật, đạo đức, phong tục
và các năng lực, thói quen mà một con người tạo ra trong xã hội ” [33, page.
1]. Theo định nghĩa này thì văn hóa và văn minh là một, nó bao gồm tất cả
những lĩnh vực liên quan đến đời sống con người, từ tri thức, tín ngưỡng đến
nghệ thuật, đạo đức, pháp luật… Năm 1952, A.L. Kroeber và Kluckhohn
xuất bản cuốn sách “Culture a critical review of concepts and definitions”.
Trong đó hai tác giả đã trích dẫn ra khoảng 160 định nghĩa về văn hóa do
các nhà khoa học đưa ra ở nhiều nước khác nhau, từ đó có thể nhận thấy
“văn hóa” là một khái niệm rất phức tạp và có nhiều cách hiểu khác nhau.
Trong cuốn sách này, A.L. Kroeber và Kluckhohn cũng đưa ra một định
nghĩa: “Văn hóa là những mô hình hành động minh thị và ám thị được
34
truyền đạt dựa trên những biểu trưng, là những yếu tố đặc trưng của từng
nhóm người… Hệ thống văn hóa vừa là kết quả của một hành vi vừa trở
thành nguyên nhân tạo điều kiện cho hành vi tiếp theo” [28].
Tại Việt Nam, văn hóa cũng được nhiều học giả định nghĩa rất khác
nhau. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng: “Vì lẽ sinh tồn cũng như mục đích
của cuộc sống, loài người mới sáng tạo và phát minh ra ngôn ngữ, chữ viết,
đạo đức, pháp luật, khoa học, tôn giáo, văn học, nghệ thuật, những công cụ
cho sinh hoạt hằng ngày về mặt ăn, ở và các phương thức sử dụng. Toàn bộ
những sáng tạo và phát minh đó tức là văn hóa” [19, tr.21]. Với cách hiểu
này, văn hóa sẽ bao gồm toàn bộ những gì do con người sáng tạo và phát
minh ra. Còn cố chủ tịch Phạm Văn Đồng thì cho rằng “Nói tới văn hóa là
nói tới một lĩnh vực vô cùng phong phú và rộng lớn, bao gồm tất cả những
gì không phải là thiên nhiên mà có liên quan đến con người trong suốt quá
trình tồn tại, phát triển, quá trình con người làm nên lịch sử… (văn hóa) bao
gồm cả hệ thống giá trị: tư tưởng và tình cảm, đạo đức với phẩm chất, trí tuệ
và tài năng, sự nhạy cảm và sự tiếp thu cái mới từ bên ngoài, ý thức bảo vệ
tài sản và bản lĩnh của cộng đồng dân tộc, sức đề kháng và sức chiến đấu
bảo vệ mình và không ngừng lớn mạnh” [19, tr.22].
Trong những năm gần đây, một số nhà nghiên cứu ở Việt Nam và kể
cả ở nước ngoài khi đề cập đến văn hóa, họ thường vận dụng định nghĩa văn
hóa do UNESCO đưa ra vào năm 1994. Theo UNESCO, văn hóa được hiểu
theo hai nghĩa: nghĩa rộng và nghĩa hẹp. Theo nghĩa rộng thì “Văn hóa là
một phức hệ - tổng hợp các đặc trưng diện mạo về tinh thần, vật chất, tri
thức và tình cảm… khắc họa nên bản sắc của một cộng đồng gia đình, xóm
làng, vùng, miền, quốc gia, xã hội… Văn hóa không chỉ bao gồm nghệ
thuật, văn chương mà còn cả lối sống, những quyền cơ bản của con người,
35
những hệ thống giá trị, những truyền thống, tín ngưỡng…”, còn hiểu theo
nghĩa hẹp thì “Văn hóa là tổng thể những hệ thống biểu trưng (ký hiệu) chi
phối cách ứng xử và giao tiếp trong cộng đồng, khiến cộng đồng đó có đặc
thù riêng” [19, tr.22].
Sở dĩ văn hóa có nhiều cách hiểu và được nhiều học giả nghiên cứu
đến vậy bởi những ảnh hưởng to lớn của nó đến mọi mặt trong đời sống xã
hội của con người, trong cách ăn, mặc, ở, đi lại, đối xử, giao tiếp... Mọi
mối quan hệ trong xã hội của con người đều cần được nhìn dưới góc nhìn
văn hóa, truyền thống để thấy rõ được những đặc trưng, ảnh hưởng đến
mối quan hệ đó và mối quan hệ giữa nhà báo và nhân viên QHCC trong
doanh nghiệp cũng không nằm ngoài quy luật đó. Nguyễn Thị Thanh
Huyền (2012) đã khẳng định: “Văn hóa là một biến số quan trọng trong
nghiên cứu về quan hệ công chúng” [40, tr.157]
Giữa xã hội phương Đông và phương Tây còn có sự khác biệt về các
nhìn nhận vai trò của cá nhân trong xã hội. Phương Đông coi trọng vai trò
của cộng đồng, phương Tây coi trọng vai trò của cá nhân. Văn hóa Việt
Nam là nền văn hóa gốc nông nghiệp, xã hội Việt Nam hàng ngàn năm nay
là một xã hội nông nghiệp. Vì thế, căn tính nông dân và văn hóa tiểu nông
đã ăn sâu trong đời sống, tiềm thức, lối sinh hoạt và ứng xử của con người
Việt Nam, trong đó, các giá trị gia đình và cộng đồng luôn được đặt lên trên
các giá trị cá nhân... Một trong những đặc trưng văn hóa của người Việt
Nam đó là văn hóa “duy tình” (Trần Quốc Vượng, 2005). Trong cuốn “Cơ
sở văn hóa Việt Nam”, tác giả Trần Quốc Vượng đã nhận định: “Con
người vừa là chủ thể nhưng vừa là khách thể của văn hóa. Có nhìn nhận
văn hóa như một chỉnh thể thống nhất, chúng ta mới lý giải được mối quan
hệ hữu cơ giữa con người với con người, giữa con người với xã hội, giữa
36
con người với tự nhiên...”. Như vậy, các mối quan hệ của con người trong
xã hội trong đó có QHCC đều bị chi phối, ảnh hưởng bởi văn hóa.
Phải đến cuối thế kỷ XX, QHCC chuyên nghiệp mới chính thức có
mặt tại Việt Nam, nhưng những hoạt động cơ bản của QHCC đã được hiện
hữu trong đời sống của cha ông ta từ xa xưa, đặc biệt là trong văn hóa giao
tiếp của người Việt [40]. Cha ông ta đã ý thức được tác dụng thay đổi nhận
thức của con người thông qua giao tiếp, và đã được đúc kết thành các câu
thành ngữ như: “nói ngọt lọt đến xương”, “lời nói chẳng mất tiền mua, lựa
lời mà nói cho vừa lòng nhau”, “nói lời phải giữ lấy lời, đừng như con
bướm đậu rồi lại bay”... Rõ ràng, văn hóa ngàn đời nay của người Việt Nam
luôn coi trong việc giao tiếp, ứng xử một cách khéo léo để xây dựng mối
quan hệ tốt đẹp giữa người với người, xây dựng một mối quan hệ hợp tác tốt
đẹp, sự gắn kết giữa một cộng đồng hòa thuận. Trong các mối quan hệ xã
hội của mình, người Việt Nam thường “nhìn trước ngó sau”, “ăn ở như bát
nước đầy”... Đồng thời, người Việt Nam sống phụ thuộc lẫn nhau và rất coi
trọng việc giữ gìn các mối quan hệ tốt với mọi thành viên trong cộng đồng.
Chính tính cộng đồng này là nguyên nhân khiến người Việt Nam đặc biệt
coi trọng việc giao tiếp. Sự giao tiếp tạo ra mối quan hệ và củng cố tình
thân.
Từ những đặc trưng trong văn hóa và tính cách của người Việt đã có
những ảnh hưởng rất lớn đến quan hệ truyền thông tại Việt Nam nói chung
và quan hệ giữa nhà báo – nhân viên QHCC nói riêng. Khi xây dựng được
một mối quan hệ thân thiết, bền chặt với nhà báo, yếu tố tình cảm của mối
quan hệ này sẽ giúp cho công việc của cả nhân viên QHCC và nhà báo gặp
nhiều thuận lợi hơn. Nhà báo có thể vì cái tình với nhân viên QHCC mà cố
tình nhắc đến tên doanh nghiệp trong những tin bài của mình hay cố tình bỏ
37