1. Trang chủ >
  2. Khoa học xã hội >
  3. Báo chí >

CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH SỰ ẢNH HƯỞNG CỦA YẾU TỐ “DUY TÌNH” TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÂN VIÊN QUAN HỆ CÔNG CHÚNG VÀ NHÀ BÁO TẠI VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 129 trang )


CHƢƠNG 2: PHÂN TÍCH SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA YẾU TỐ “DUY

TÌNH” TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÂN VIÊN QUAN HỆ

CÔNG CHÚNG VÀ NHÀ BÁO TẠI VIỆT NAM

2.1 Quá trình thiết kế nghiên cứu

QHCC là một lĩnh vực hoạt động truyền thông có tính toàn cầu nhưng

cũng bị chi phối mạnh mẽ bởi các nền văn hóa bản địa của các quốc gia

[39]. Do đó, trong luận văn này, hệ thống lý thuyết về QHCC trên thế giới

được tác giả tiếp thu một cách có chọn lọc và điều chỉnh theo môi trường

văn hóa và môi trường truyền thông tại Việt Nam để đảm bảo được sự phù

hợp nhằm thu được những kết quả nghiên cứu tốt nhất.

Trên cơ sở đó, bảng hỏi cho việc phỏng vấn sâu được thiết kế dựa trên

việc kế thừa kết quả nghiên cứu năm 2004 của Dan Berkowitz (Khoa Báo

chí và Truyền thông, Đại học Iowa, Thành phố Iowa, Hoa Kỳ) và Jonghyuk

Lee (Viện cố vấn quan hệ công chúng, Tạp chí “Prain and Rhee”, Seoul,

Hàn Quốc) có nhan đề: “Media relations in Korea: Cheong between

journalist and public relations practioner” (tạm dịch: Yếu tố tình cảm trong

mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo tại Hàn Quốc). Nghiên cứu

này được đăng tải trên tạp chí Public Relations Review – một tạp chí khoa

học hàng đầu về chuyên ngành QHCC trên thế giới.

Nghiên cứu này đã vận dụng khái niệm của từ “Cheong” - nền tảng

vững chắc cho các mối quan hệ của người Hàn - để phân tích mối quan hệ

giữa các nhân viên QHCC và nhà báo ở Hàn Quốc. Khái niệm “Cheong” và

“Tình” rất gần gũi với nhau vì nó cùng được sinh ra từ các nền văn hóa có

tính tương đồng cao. Nghiên cứu này nhằm khám phá vấn đề: làm sao có thể

vận dụng từ “Cheong” để xem xét lại mối quan hệ giữa nhà báo và nhân

viên QHCC nói chung, và tìm hiểu thêm về quan hệ truyền thông ở Hàn

43



Quốc nói riêng. Nghiên cứu phân tích các cuộc phỏng vấn sâu được thực

hiện với 10 nhà báo từ các báo lớn của Hàn Quốc và 10 nhân viên QHCC từ

các công ty lớn trên Hàn Quốc về mối quan hệ giữa họ.

Có 3 câu hỏi nghiên cứu được sử dụng để chỉ ra tính chất của quan hệ

truyền thông giữa nhà báo và nhân viên QHCC liên quan đến chữ “Cheong”:

Câu hỏi 1: Các nhà báo và nhân viên QHCC cảm thấy sự tồn tại của

tình cảm giữa họ ở mức độ nào? Họ cảm thấy sao về điều đó?

Câu hỏi 2: Nếu thực sự tồn tại một tình cảm giữa hai bên thì nó được

biểu hiện như thế nào trong các hoạt động về nghề nghiệp của họ?

Câu hỏi 3: Khi hình thành nên tình cảm giữa nhà báo và nhân viên

QHCC thì sẽ tạo ra những hiệu quả nào?

Câu hỏi nghiên cứu đầu tiên rằng các nhà báo và nhân viên QHCC có

cho rằng tồn tại tình cảm “Cheong” giữa họ không. Đa số những người được

phỏng vấn đều cảm thấy nó có tồn tại, và nó phát triển một cách tự nhiên

qua những giao thiệp công việc, mặc dù nó cũng xuất hiện trong các phương

diện văn hóa khác của Hàn Quốc. Câu hỏi nghiên cứu thứ 2 về việc làm thế

nào mà tình cảm “Cheong” biểu hiện trong các hoạt động nghề nghiệp. Các

cuộc phỏng vấn cho thấy rằng tình cảm “Cheong” hình thành nên âm điệu

của các mối quan hệ chứ không phải nội dung tin tức mà nó cung cấp. Câu

hỏi nghiên cứu thứ 3 về tác động và hiệu quả mà nó tình cảm “Cheong”

mang lại. Các cuộc phỏng vấn đã giúp phát hiện ra rằng tình cảm “Cheong”

không gây ra tham nhũng ở giới báo chí mà hiệu quả là cả 2 phía đều có thể

phân định khía cạnh riêng tư và khía cạnh công việc khi họ gặp nhau. Do đó,

nghiên cứu này chỉ ra rằng mối quan hệ được thấy giữa các nhà báo với các

nhân viên QHCC dựa trên tình cảm “Cheong” có thể ảnh hưởng tích cực đến

44



quan hệ truyền thông. Một đóng góp quan trọng của nghiên cứu này là nó đã

làm nổi bật lên một mẫu quan hệ truyền thông tích cực hơn mà không có bất

kỳ sự nghi ngờ nào thường thấy trong quan hệ truyền thông phương Tây.

Dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của công trình

trên, tác giả tiến hành phỏng vấn sâu với 10 nhân viên QHCC của các doanh

nghiệp có thương hiệu và 10 nhà báo đến từ các cơ quan báo chí uy tín,

được sắp xếp theo từng cặp có mối quan hệ với nhau. Tiêu chuẩn trong việc

chọn người phỏng vấn là có ít nhất một năm kinh nghiệm làm việc tại vị trí

nhà báo hoặc nhân viên QHCC, am hiểu về lĩnh vực chuyên môn, và nhiệt

tình trong việc trả lời câu hỏi. Bảng hỏi được thiết kế thông qua việc ứng

dụng những kết quả nghiên cứu của Dan Berkowitz, cũng như qua thực tiễn

tìm hiểu về mối quan hệ giữa nhân viên QHCC trong các doanh nghiệp tại

Việt Nam và nhà báo.

Ngoài ra, luận văn còn dùng phương pháp điều tra xã hội học bằng

bảng hỏi (survey) với 100 nhân viên QHCC và nhà báo. Nội dung bảng hỏi

được xây dựng dựa trên việc tham khảo về nội dung bảng hỏi trong nghiên

cứu của Yi-Hui Huang, (giảng viên Khoa Quảng cáo và Quan hệ công

chúng, Trường đại học Chính trị quốc gia Đài Loan) có nhan đề: “OPRA: A

Cross-Cultural, multiple item scale for measuring organization public

relationhips” (Huang, 2001). (Tạm dịch là: “OPRA: Thang đo đa hạng mục,

liên văn hóa để đánh giá những mối quan hệ với các nhóm công chúng của

một tổ chức”). Nghiên cứu này được đăng tải trên tạp chí Journal of Public

Relations Research – một tạp chí khoa học hàng đầu và dah tiếng cao về

chuyên ngành QHCC trên thế giới.

Bảng hỏi sử dụng các câu hỏi định tính và thang đo likert mức độ 5

từ Hoàn toàn đúng, đúng, trung lập, không đúng, hoàn toàn không đúng để

45



khảo sát ý kiến người trả lời về các mức độ ảnh hưởng của yếu tố “duy tình”

tới mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo. Đồng thời, tác giả cũng

để nhiều câu hỏi mở với phần “ý kiến khác” để người trả lời có thể bày tỏ

nhiều hơn quan điểm của mình. Trước khi tiến hành đưa vào khảo sát thực

tế, bảng hỏi cũng đã được gửi cho 2 nhà báo và 2 nhân viên QHCC đọc và

góp ý về nội dung cũng như cách diễn đạt.

Khảo sát “Ảnh hưởng của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa

nhân viên QHCC và nhà báo tại Việt Nam” được thực hiện từ ngày 12/5

đến 30/6/2012. Đây là hình thức khảo sát trên mạng được tạo từ ứng dụng

của



Google



docs



tại



đường



link



https://docs.google.com/spreadsheet/formResponse?formkey=dDNMYUdq

TnpyOFBCbjV2b3QwbVh3VkE6MQ&theme=0AX42CRMsmRFbUy1iOD

QwMzFlYi1iZjJhLTRmNmUtODQ0My1iNjJmYTUzNjQ2ZWE&ifq.

Đường link này được gửi tới người khảo sát qua qua email , đăng trên một

số diễn đàn chuyên môn, đăng trên facebook. Người khảo sát chỉ cần nhấp

chuột vào đường dẫn và thực hiện khảo sát, sau đó kết quả được tổng hợp

trên bảng Excel.

Danh sách người trả lời do tác giả tự tập hợp dựa trên danh sách các

nhà báo và nhân viên QHCC mà tác giả có quan hệ công việc và có mối

quan hệ cá nhân. Ngoài ra, tác giả còn tận dụng phương pháp “snowball”

(bông tuyết lăn) để nhận được sự gợi ý và giới thiệu của họ tới các đối tượng

khác phù hợp cùng tham gia thực hiện khảo sát.

Đã có 100 người tham gia trả lời, trong số đó có 7 phần trả lời không

hợp lệ do bị sai đối tượng và thiếu nhiều thông tin. Kết quả có 93 phần trả

lời hợp lệ được sử dụng làm dữ liệu cho nghiên cứu. Trong đó có 64,5%

người làm khảo sát hiện đang làm trong lĩnh vực Báo chí – truyền thông,

35,5% còn lại làm việc trong lĩnh vực QHCC. Những người thực hiện khảo

sát đến từ các tòa soạn báo (26,9%), đài truyền hình (6,5%), đài tiếng nói

(4,3%), doanh nghiệp tư nhân (44,1%), doanh nghiệp nhà nước (18,3%).

46



Trong 93 người tham gia khảo sát có 16,1% có trình độ sau đại học, 73,1%

là trình độ đại học, còn lại là trình độ cao đẳng và thấp hơn. Điều này cho

thấy sự đa dạng về trình độ, thành phần của đối tượng tham gia khảo sát,

góp phần nâng tính chính xác, khách quan của kết quả mà khảo sát thu được.

Song song với việc thực hiện khảo sát bằng bảng hỏi, các cuộc phỏng

vấn sâu cũng được tiến hành từ ngày 15/5 đến 15/7/2012 và được thực hiện

độc lập với nhau, thời gian và thời lượng cuộc phỏng vấn cũng không cố

định. Việc phỏng vấn được diễn ra qua email, điện thoại, qua chat (yahoo,

skype, gtalk) hoặc gặp mặt trao đổi trực tiếp. Các đối tượng này sẽ được

ghép thành cặp (1 nhân viên QHCC và 1 nhà báo), với điều kiện là giữa họ

có mối quan hệ làm việc tối thiểu là 1 năm. Tiêu chuẩn này rất quan trọng

bởi phải mất ít nhất 1 năm thì tình cảm giữa nhân viên QHCC và nhà báo

mới có thể đủ mạnh để đánh giá về yếu tố “duy tình” ảnh hưởng đến họ hay

nói cách khác thời gian này đủ ngưỡng “cho phép họ đạt tới mức tích lũy

trạng thái tình cảm cần thiết” (Choi, Kim, & Kim, 2000).

Đối với một nhân viên QHCC đặc biệt là nhân viên QHCC làm việc

trong bộ phận QHCC của doanh nghiệp thì việc có xây dựng được một mối

quan hệ tốt đẹp với giới truyền thông hay không có ảnh hưởng rất lớn đến sự

thành công trong công việc của họ. Thậm chí đây còn được coi là yếu tố

sống còn của những người theo nghề QHCC tại Việt Nam. Trong thời đại

bùng nổ thông tin như hiện nay, nhân viên QHCC trở thành cánh tay phải

của báo chí, là đầu mối trong việc thu thập thông tin. Ngược lại với người

làm nghề QHCC, báo chí chính là kênh truyền tải thông tin hữu hiệu nhất

đến công chúng mục tiêu của họ. Nói cách khác quan hệ giữa nhân viên

QHCC và nhà báo là mối quan hệ không thể thiếu được với cả doanh nghiệp

và cơ quan báo chí. Đây là mối quan hệ tương hỗ hay còn gọi là quan hệ cho

và nhận, hai bên cùng có lợi.



47



2.2 Kết quả khảo sát về ảnh hƣởng của yếu tố “duy tình” trong mối

quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo tại Việt Nam

2.2.1 Biểu hiện của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa

nhân viên QHCC và nhà báo

100% người được hỏi đều cho rằng thực sự tồn tại một dạng tình cảm

giữa nhân viên QHCC và nhà báo. Thực tế, sự tồn tại của tình cảm cá nhân

trong mối quan hệ giữa 2 nhóm đối tượng này không phải là yếu tố mới mẻ

tại Việt Nam. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà báo đã được nhắc đến

trong nhiều nghiên cứu ở Việt Nam, trong đó, các nghiên cứu đều chỉ ra các

tính chất cơ bản của mối quan hệ này đó là sự phụ thuộc lẫn nhau nhưng

cũng ngày càng bình đẳng với nhau, tính tôn ti – trật tự, tính mâu thuẫn –

đối lập… Nhưng khi xem xét ở một mối quan hệ cụ thể là giữa các nhân

viên QHCC (làm trong các doanh nghiệp) với nhà báo thì hầu như chưa có

nghiên cứu nào mô tả cụ thể dạng tình cảm đang tồn tại giữa hai phía.

Nhận diện dạng tình cảm giữa nhân

Số lƣợng phiếu



Tỷ lệ



5



5,4%



30



32,3%



25



26,9%



Cả ba đáp án trên



33



35,5%



Tổng số



93



100,0 %



viên QHCC và nhà báo

Là một dạng tình cảm cá nhân

Từ quan hệ trong công việc mà hình

thành nên

Tình cảm phải có để duy trì lợi ích

công việc của cả 2 bên



Bảng 2.1: Nhận diện dạng tình cảm giữa nhân viên QHCC và nhà báo



48



Hầu hết những người được khảo sát đều đồng ý mối quan hệ tình cảm

giữa nhà báo và nhân viên QHCC đều là sự tổng hòa từ 3 yếu tố (cả ba đáp

án trên): tình cảm cá nhân, quan hệ từ công việc hình thành nên và đây là

tình cảm phải có để duy trì lợi ích cho công việc của cả 2 (35,5%). Điều này

cho thấy nhận thức về mối quan hệ đang tồn tại trong công việc hàng ngày

của họ đã ngày càng tiến bộ và hiện đại hơn. Họ đã nhìn nhận mối quan hệ

này ở nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, tỷ lệ này chỉ nhỉnh

hơn so với những người có quan điểm cho rằng mối quan hệ giữa nhân viên

QHCC và nhà báo thực chất là xuất phát từ công việc và nó được xây dựng

lên để phục vụ cho công việc của đôi bên (32,3%). Như vậy, trên thực tế,

quan điểm về mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo hầu như chưa

có sự thống nhất mà vẫn có nhiều quan điểm khác nhau. Thậm chí, có rất ít

người (5,4%) cho rằng tình cảm đang tồn tại giữa hai bên còn ẩn chứa tình

cảm cá nhân.

Thông qua phỏng vấn sâu, 10/10 cặp đôi đều công nhận có mối liên

hệ tình cảm nào đó giữa họ với nhà báo hoặc với nhân viên QHCC. Các cặp

số 1, số 2 và số 8 thì cảm thấy mối liên hệ giữa họ được xuất phát từ công

việc và cũng duy trì để phục vụ công việc nhiều hơn là việc nảy sinh một

tình cảm thân thiết nào đó. Các cặp còn lại thì cảm thấy tình cảm này rõ rệt

hơn thông qua việc họ hỗ trợ lẫn nhau trong công việc và ý thức xây dựng

mối quan hệ lâu dài. Thêm nữa, số ít cặp còn lại có mối liên hệ tình cảm

xuất phát từ tình bạn/tình đồng hương nên các tương tác giữa họ trở nên

thuận lợi hơn.

Nguồn gốc của yếu tố tình cảm trong mối

Số lƣợng

quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo

phiếu

Du nhập từ nước ngoài vào

7

Văn hóa VN với đặc trưng “duy tình”

25

Nhu cầu cần thiết của xã hội

32

Cả ba đáp án trên

28

Khác

1

Tổng số

93

Bảng 2.2: Đánh giá về nguồn gốc của yếu tố tình cảm trong

mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo

49



Tỷ lệ

7,5%

26,9%

34,4%

30,1%

1,1%

100,0%



Thực tế quan hệ truyền thông ở Việt Nam vẫn chưa được định hình

một cách rõ rệt và chưa có sự áp dụng thống nhất một khung lý thuyết

nghiên cứu nào, bởi vậy mối quan hệ này dường như vẫn còn được nhìn

nhận một cách cảm tính. Điều này được thể hiện ở tỷ lệ 34,3% người trả lời

khảo sát nhận định rằng đây là mối quan hệ xuất phát từ nhu cầu cần thiết

của xã hội. Còn nguồn gốc sâu xa của mối quan hệ này được xuất phát từ

đặc trưng văn hóa duy tình chỉ có 26,9% cảm nhận được. Tuy nhiên, kết quả

khảo sát trên cũng cho phép chúng ta tin tưởng vào mức độ nhận thức của

những người khảo sát bao gồm những người làm trong lĩnh vực báo chí hoặc

QHCC khi có một số lượng đông đảo (30%) tin rằng mối quan hệ này phải

là sự tổng hòa của cả 3 yếu tố: du nhập từ nước ngoài, đặc trưng duy tình

của văn hóa Việt Nam và nhu cầu của xã hội thì mới trọn vẹn.

Bối cảnh toàn cầu hóa khiến cho các doanh nghiệp ý thức hơn tới

việc xây dựng hình ảnh của mình trong con mắt khách hàng, đối tác, nhà

quản lý... và bộ phận QHCC nội bộ trong doanh nghiệp được hình thành

để giữ vai trò, nhiệm vụ đưa hình ảnh, thông tin của doanh nghiệp ra bên

ngoài. Nhiều doanh nghiệp đã chú trọng đầu tư cho hoạt động QHCC,

một hoạt động có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc xây dựng và phát

triển thương hiệu. Mỗi nhân viên QHCC trong bộ phận QHCC của doanh

nghiệp đều hiểu rằng báo chí chính là cầu nối giúp đưa hình ảnh và thông

tin của doanh nghiệp mình ra bên ngoài. Chính vì vậy, mỗi nhân viên

QHCC nói riêng, bộ phận QHCC nội bộ của doanh nghiệp nói chung đều

muốn xây dựng một mối quan hệ hợp tác tốt đẹp với báo giới và nhiệm vụ

của các nhân viên QHCC trong doanh nghiệp là đưa ra được những

phương thức xây dựng mối quan hệ với nhà báo một cách hiệu quả nhất.



50



Biểu hiện của yếu tố tình cảm trong mối quan



Số lƣợng



hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo



phiếu



Liên hệ với nhau khi có công việc liên quan



Tỷ lệ



21



22,6%



16



17,2%



29



31,2%



Cả ba đáp án trên



27



29,0%



Tổng số



93



100,0%



Thường xuyên có sự giao lưu, gặp gỡ dưới nhiều

hình thức

Có mối quan hệ mật thiết, tương tác lẫn nhau

trong công việc



Bảng 2.3: Biểu hiện của yếu tố tình cảm trong mối quan hệ giữa nhân viên

QHCC và nhà báo

Qua tỷ lệ khảo sát có thể thấy, phần đa đều nhận định mối quan hệ

giữa nhân viên QHCC và nhà báo thông qua biểu hiện về sự mật thiết và

tương tác lẫn nhau trong công việc giữa 2 bên. Số ít hơn thì chỉ nhận thấy

tình cảm giữa họ khác các mối quan hệ khác một chút đó là có sự liên hệ với

nhau khi phát sinh các công việc liên quan. Ngoài ra, cũng khá nhiều người

đồng tình, mối quan hệ giữa nhà báo và nhân viên QHCC đang được thể

hiện ở cả 3 khía cạnh đưa ra. Một số cặp tham gia phỏng vấn sâu cũng cho

rằng tình cảm thân thiết giữa họ hiện lên rõ nét qua sự liên hệ cá nhân, liên

hệ trong công việc. Như vậy, việc giữ liên lạc và gặp gỡ thường xuyên

dường như đã trở thành “đặc điểm nhận diện” trong mối liên hệ giữa nhân

viên QHCC và nhà báo. Đây cũng sẽ là một trong những phương thức quan

trọng để duy trì và phát triển mối quan hệ này. Điều này hoàn toàn phù hợp

với lối sống duy tình của người Việt ta: “áo năng may năng mới, người năng

tới năng thân”.

51



Một trong những biểu hiện thường thấy của mối quan hệ thân thiết

giữa nhân viên QHCC và nhà báo đó là việc tặng quà. Văn hoá tặng quà –

một yếu tố không thể thiếu trong lối sống trọng tình của người dân Việt

Nam nói riêng và trong văn hóa phương Đông nói chung. Tặng quà không

chỉ trong các dịp lễ, tết, ngày kỷ niệm mà thậm chí khi có sự quý mến người

ta cũng có thể tặng quà cho nhau.

Quan điểm về hình thức tặng quà bằng



Số lƣợng



phong bì đối với nhà báo



phiếu



Tỷ lệ



Hoàn toàn không đúng



1



1,1%



Không đúng



7



7,5%



Trung lập



24



25,8%



Đúng



20



21,5%



Hoàn toàn đúng



41



44,1%



Tổng



93



100%



Bảng 2.4: Quan điểm về hình thức tặng quà bằng phong bì đối với nhà báo

Trong khuôn khổ đề tài nghiên cứu, tác giả có đưa ra giả thuyết về

văn hóa tặng quà giữa nhân viên QHCC và nhà báo mà cụ thể là hình thức

tặng quà bằng phong bì, có đến 65.6% người được hỏi thấy rằng việc tặng

quà bằng phong bì là hết sức bình thường và phù hợp với điều kiện kinh tế,

văn hóa Việt Nam. Tất nhiên, câu hỏi chưa nhấn sâu vào giá trị của phong

bì. Bên cạnh 25.8% trung lập thì cũng có 8.6% số người phản đối việc

“phong bì hóa”.

Khách quan cho thấy, việc tặng quà bằng hình thức phong bì luôn có

2 mặt: một mặt thể hiện sự phù hợp của thực tiễn hiện nay, với số tiền đó,

người nhận quà có thể tự mua cho mình món quà yêu thích, hơn nữa, tiền có

52



khả năng quy đổi thành mọi đồ vật, và thực tế cũng cho thấy nhiều người

muốn nhận được quà bằng phong bì hơn là bằng hiện vật. Nhưng mặt khác,

dưới sự lên án mạnh mẽ văn hóa phong bì đang lan rộng ở nhiều mặt của đời

sống thì cách tặng quà này ít nhiều cũng gây sự phản cảm cho người chứng

kiến. Nó gây cảm giác của sự hối lộ, mua chuộc, nhờ vả … Thậm chí, nhiều

đơn vị đã dùng phong bì để mua lợi ích cho đơn vị mình và làm tha hóa đạo

đức của nhà báo.

Với doanh nghiệp và nhà báo, món quà này thường được tặng vào các

dịp lễ – tết, bồi dưỡng cho các buổi họp báo hoặc là “nhuận bút” khi có bài

viết hay về doanh nghiệp bởi vậy tính tiêu cực của nó cũng không quá

nghiêm trọng.

2.2.2 Mức độ ảnh hƣởng của yếu tố “duy tình” trong mối quan

hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo





Ảnh hƣởng tích cực



Có đến gần 81% người tham gia khảo sát đã xác nhận có những lợi

ích nhất định cho công việc của mình khi có thêm yếu tố tình cảm trong mối

quan hệ giữa họ với nhà báo hoặc với nhân viên công chúng. Còn lại là tỷ lệ

trung lập (19.4%) tức là lợi ích đó chưa thực sự thể hiện rõ ràng. Đây có lẽ

là những trường hợp mới tham gia xây dựng mối quan hệ này hoặc quan sát

mối quan hệ này từ góc độ khách quan.



53



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (129 trang)

×