Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.57 MB, 129 trang )
CHƢƠNG 2: PHÂN TÍCH SỰ ẢNH HƢỞNG CỦA YẾU TỐ “DUY
TÌNH” TRONG MỐI QUAN HỆ GIỮA NHÂN VIÊN QUAN HỆ
CÔNG CHÚNG VÀ NHÀ BÁO TẠI VIỆT NAM
2.1 Quá trình thiết kế nghiên cứu
QHCC là một lĩnh vực hoạt động truyền thông có tính toàn cầu nhưng
cũng bị chi phối mạnh mẽ bởi các nền văn hóa bản địa của các quốc gia
[39]. Do đó, trong luận văn này, hệ thống lý thuyết về QHCC trên thế giới
được tác giả tiếp thu một cách có chọn lọc và điều chỉnh theo môi trường
văn hóa và môi trường truyền thông tại Việt Nam để đảm bảo được sự phù
hợp nhằm thu được những kết quả nghiên cứu tốt nhất.
Trên cơ sở đó, bảng hỏi cho việc phỏng vấn sâu được thiết kế dựa trên
việc kế thừa kết quả nghiên cứu năm 2004 của Dan Berkowitz (Khoa Báo
chí và Truyền thông, Đại học Iowa, Thành phố Iowa, Hoa Kỳ) và Jonghyuk
Lee (Viện cố vấn quan hệ công chúng, Tạp chí “Prain and Rhee”, Seoul,
Hàn Quốc) có nhan đề: “Media relations in Korea: Cheong between
journalist and public relations practioner” (tạm dịch: Yếu tố tình cảm trong
mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo tại Hàn Quốc). Nghiên cứu
này được đăng tải trên tạp chí Public Relations Review – một tạp chí khoa
học hàng đầu về chuyên ngành QHCC trên thế giới.
Nghiên cứu này đã vận dụng khái niệm của từ “Cheong” - nền tảng
vững chắc cho các mối quan hệ của người Hàn - để phân tích mối quan hệ
giữa các nhân viên QHCC và nhà báo ở Hàn Quốc. Khái niệm “Cheong” và
“Tình” rất gần gũi với nhau vì nó cùng được sinh ra từ các nền văn hóa có
tính tương đồng cao. Nghiên cứu này nhằm khám phá vấn đề: làm sao có thể
vận dụng từ “Cheong” để xem xét lại mối quan hệ giữa nhà báo và nhân
viên QHCC nói chung, và tìm hiểu thêm về quan hệ truyền thông ở Hàn
43
Quốc nói riêng. Nghiên cứu phân tích các cuộc phỏng vấn sâu được thực
hiện với 10 nhà báo từ các báo lớn của Hàn Quốc và 10 nhân viên QHCC từ
các công ty lớn trên Hàn Quốc về mối quan hệ giữa họ.
Có 3 câu hỏi nghiên cứu được sử dụng để chỉ ra tính chất của quan hệ
truyền thông giữa nhà báo và nhân viên QHCC liên quan đến chữ “Cheong”:
Câu hỏi 1: Các nhà báo và nhân viên QHCC cảm thấy sự tồn tại của
tình cảm giữa họ ở mức độ nào? Họ cảm thấy sao về điều đó?
Câu hỏi 2: Nếu thực sự tồn tại một tình cảm giữa hai bên thì nó được
biểu hiện như thế nào trong các hoạt động về nghề nghiệp của họ?
Câu hỏi 3: Khi hình thành nên tình cảm giữa nhà báo và nhân viên
QHCC thì sẽ tạo ra những hiệu quả nào?
Câu hỏi nghiên cứu đầu tiên rằng các nhà báo và nhân viên QHCC có
cho rằng tồn tại tình cảm “Cheong” giữa họ không. Đa số những người được
phỏng vấn đều cảm thấy nó có tồn tại, và nó phát triển một cách tự nhiên
qua những giao thiệp công việc, mặc dù nó cũng xuất hiện trong các phương
diện văn hóa khác của Hàn Quốc. Câu hỏi nghiên cứu thứ 2 về việc làm thế
nào mà tình cảm “Cheong” biểu hiện trong các hoạt động nghề nghiệp. Các
cuộc phỏng vấn cho thấy rằng tình cảm “Cheong” hình thành nên âm điệu
của các mối quan hệ chứ không phải nội dung tin tức mà nó cung cấp. Câu
hỏi nghiên cứu thứ 3 về tác động và hiệu quả mà nó tình cảm “Cheong”
mang lại. Các cuộc phỏng vấn đã giúp phát hiện ra rằng tình cảm “Cheong”
không gây ra tham nhũng ở giới báo chí mà hiệu quả là cả 2 phía đều có thể
phân định khía cạnh riêng tư và khía cạnh công việc khi họ gặp nhau. Do đó,
nghiên cứu này chỉ ra rằng mối quan hệ được thấy giữa các nhà báo với các
nhân viên QHCC dựa trên tình cảm “Cheong” có thể ảnh hưởng tích cực đến
44
quan hệ truyền thông. Một đóng góp quan trọng của nghiên cứu này là nó đã
làm nổi bật lên một mẫu quan hệ truyền thông tích cực hơn mà không có bất
kỳ sự nghi ngờ nào thường thấy trong quan hệ truyền thông phương Tây.
Dựa trên cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của công trình
trên, tác giả tiến hành phỏng vấn sâu với 10 nhân viên QHCC của các doanh
nghiệp có thương hiệu và 10 nhà báo đến từ các cơ quan báo chí uy tín,
được sắp xếp theo từng cặp có mối quan hệ với nhau. Tiêu chuẩn trong việc
chọn người phỏng vấn là có ít nhất một năm kinh nghiệm làm việc tại vị trí
nhà báo hoặc nhân viên QHCC, am hiểu về lĩnh vực chuyên môn, và nhiệt
tình trong việc trả lời câu hỏi. Bảng hỏi được thiết kế thông qua việc ứng
dụng những kết quả nghiên cứu của Dan Berkowitz, cũng như qua thực tiễn
tìm hiểu về mối quan hệ giữa nhân viên QHCC trong các doanh nghiệp tại
Việt Nam và nhà báo.
Ngoài ra, luận văn còn dùng phương pháp điều tra xã hội học bằng
bảng hỏi (survey) với 100 nhân viên QHCC và nhà báo. Nội dung bảng hỏi
được xây dựng dựa trên việc tham khảo về nội dung bảng hỏi trong nghiên
cứu của Yi-Hui Huang, (giảng viên Khoa Quảng cáo và Quan hệ công
chúng, Trường đại học Chính trị quốc gia Đài Loan) có nhan đề: “OPRA: A
Cross-Cultural, multiple item scale for measuring organization public
relationhips” (Huang, 2001). (Tạm dịch là: “OPRA: Thang đo đa hạng mục,
liên văn hóa để đánh giá những mối quan hệ với các nhóm công chúng của
một tổ chức”). Nghiên cứu này được đăng tải trên tạp chí Journal of Public
Relations Research – một tạp chí khoa học hàng đầu và dah tiếng cao về
chuyên ngành QHCC trên thế giới.
Bảng hỏi sử dụng các câu hỏi định tính và thang đo likert mức độ 5
từ Hoàn toàn đúng, đúng, trung lập, không đúng, hoàn toàn không đúng để
45
khảo sát ý kiến người trả lời về các mức độ ảnh hưởng của yếu tố “duy tình”
tới mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo. Đồng thời, tác giả cũng
để nhiều câu hỏi mở với phần “ý kiến khác” để người trả lời có thể bày tỏ
nhiều hơn quan điểm của mình. Trước khi tiến hành đưa vào khảo sát thực
tế, bảng hỏi cũng đã được gửi cho 2 nhà báo và 2 nhân viên QHCC đọc và
góp ý về nội dung cũng như cách diễn đạt.
Khảo sát “Ảnh hưởng của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa
nhân viên QHCC và nhà báo tại Việt Nam” được thực hiện từ ngày 12/5
đến 30/6/2012. Đây là hình thức khảo sát trên mạng được tạo từ ứng dụng
của
Google
docs
tại
đường
link
https://docs.google.com/spreadsheet/formResponse?formkey=dDNMYUdq
TnpyOFBCbjV2b3QwbVh3VkE6MQ&theme=0AX42CRMsmRFbUy1iOD
QwMzFlYi1iZjJhLTRmNmUtODQ0My1iNjJmYTUzNjQ2ZWE&ifq.
Đường link này được gửi tới người khảo sát qua qua email , đăng trên một
số diễn đàn chuyên môn, đăng trên facebook. Người khảo sát chỉ cần nhấp
chuột vào đường dẫn và thực hiện khảo sát, sau đó kết quả được tổng hợp
trên bảng Excel.
Danh sách người trả lời do tác giả tự tập hợp dựa trên danh sách các
nhà báo và nhân viên QHCC mà tác giả có quan hệ công việc và có mối
quan hệ cá nhân. Ngoài ra, tác giả còn tận dụng phương pháp “snowball”
(bông tuyết lăn) để nhận được sự gợi ý và giới thiệu của họ tới các đối tượng
khác phù hợp cùng tham gia thực hiện khảo sát.
Đã có 100 người tham gia trả lời, trong số đó có 7 phần trả lời không
hợp lệ do bị sai đối tượng và thiếu nhiều thông tin. Kết quả có 93 phần trả
lời hợp lệ được sử dụng làm dữ liệu cho nghiên cứu. Trong đó có 64,5%
người làm khảo sát hiện đang làm trong lĩnh vực Báo chí – truyền thông,
35,5% còn lại làm việc trong lĩnh vực QHCC. Những người thực hiện khảo
sát đến từ các tòa soạn báo (26,9%), đài truyền hình (6,5%), đài tiếng nói
(4,3%), doanh nghiệp tư nhân (44,1%), doanh nghiệp nhà nước (18,3%).
46
Trong 93 người tham gia khảo sát có 16,1% có trình độ sau đại học, 73,1%
là trình độ đại học, còn lại là trình độ cao đẳng và thấp hơn. Điều này cho
thấy sự đa dạng về trình độ, thành phần của đối tượng tham gia khảo sát,
góp phần nâng tính chính xác, khách quan của kết quả mà khảo sát thu được.
Song song với việc thực hiện khảo sát bằng bảng hỏi, các cuộc phỏng
vấn sâu cũng được tiến hành từ ngày 15/5 đến 15/7/2012 và được thực hiện
độc lập với nhau, thời gian và thời lượng cuộc phỏng vấn cũng không cố
định. Việc phỏng vấn được diễn ra qua email, điện thoại, qua chat (yahoo,
skype, gtalk) hoặc gặp mặt trao đổi trực tiếp. Các đối tượng này sẽ được
ghép thành cặp (1 nhân viên QHCC và 1 nhà báo), với điều kiện là giữa họ
có mối quan hệ làm việc tối thiểu là 1 năm. Tiêu chuẩn này rất quan trọng
bởi phải mất ít nhất 1 năm thì tình cảm giữa nhân viên QHCC và nhà báo
mới có thể đủ mạnh để đánh giá về yếu tố “duy tình” ảnh hưởng đến họ hay
nói cách khác thời gian này đủ ngưỡng “cho phép họ đạt tới mức tích lũy
trạng thái tình cảm cần thiết” (Choi, Kim, & Kim, 2000).
Đối với một nhân viên QHCC đặc biệt là nhân viên QHCC làm việc
trong bộ phận QHCC của doanh nghiệp thì việc có xây dựng được một mối
quan hệ tốt đẹp với giới truyền thông hay không có ảnh hưởng rất lớn đến sự
thành công trong công việc của họ. Thậm chí đây còn được coi là yếu tố
sống còn của những người theo nghề QHCC tại Việt Nam. Trong thời đại
bùng nổ thông tin như hiện nay, nhân viên QHCC trở thành cánh tay phải
của báo chí, là đầu mối trong việc thu thập thông tin. Ngược lại với người
làm nghề QHCC, báo chí chính là kênh truyền tải thông tin hữu hiệu nhất
đến công chúng mục tiêu của họ. Nói cách khác quan hệ giữa nhân viên
QHCC và nhà báo là mối quan hệ không thể thiếu được với cả doanh nghiệp
và cơ quan báo chí. Đây là mối quan hệ tương hỗ hay còn gọi là quan hệ cho
và nhận, hai bên cùng có lợi.
47
2.2 Kết quả khảo sát về ảnh hƣởng của yếu tố “duy tình” trong mối
quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo tại Việt Nam
2.2.1 Biểu hiện của yếu tố “duy tình” trong mối quan hệ giữa
nhân viên QHCC và nhà báo
100% người được hỏi đều cho rằng thực sự tồn tại một dạng tình cảm
giữa nhân viên QHCC và nhà báo. Thực tế, sự tồn tại của tình cảm cá nhân
trong mối quan hệ giữa 2 nhóm đối tượng này không phải là yếu tố mới mẻ
tại Việt Nam. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp và nhà báo đã được nhắc đến
trong nhiều nghiên cứu ở Việt Nam, trong đó, các nghiên cứu đều chỉ ra các
tính chất cơ bản của mối quan hệ này đó là sự phụ thuộc lẫn nhau nhưng
cũng ngày càng bình đẳng với nhau, tính tôn ti – trật tự, tính mâu thuẫn –
đối lập… Nhưng khi xem xét ở một mối quan hệ cụ thể là giữa các nhân
viên QHCC (làm trong các doanh nghiệp) với nhà báo thì hầu như chưa có
nghiên cứu nào mô tả cụ thể dạng tình cảm đang tồn tại giữa hai phía.
Nhận diện dạng tình cảm giữa nhân
Số lƣợng phiếu
Tỷ lệ
5
5,4%
30
32,3%
25
26,9%
Cả ba đáp án trên
33
35,5%
Tổng số
93
100,0 %
viên QHCC và nhà báo
Là một dạng tình cảm cá nhân
Từ quan hệ trong công việc mà hình
thành nên
Tình cảm phải có để duy trì lợi ích
công việc của cả 2 bên
Bảng 2.1: Nhận diện dạng tình cảm giữa nhân viên QHCC và nhà báo
48
Hầu hết những người được khảo sát đều đồng ý mối quan hệ tình cảm
giữa nhà báo và nhân viên QHCC đều là sự tổng hòa từ 3 yếu tố (cả ba đáp
án trên): tình cảm cá nhân, quan hệ từ công việc hình thành nên và đây là
tình cảm phải có để duy trì lợi ích cho công việc của cả 2 (35,5%). Điều này
cho thấy nhận thức về mối quan hệ đang tồn tại trong công việc hàng ngày
của họ đã ngày càng tiến bộ và hiện đại hơn. Họ đã nhìn nhận mối quan hệ
này ở nhiều góc độ và khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, tỷ lệ này chỉ nhỉnh
hơn so với những người có quan điểm cho rằng mối quan hệ giữa nhân viên
QHCC và nhà báo thực chất là xuất phát từ công việc và nó được xây dựng
lên để phục vụ cho công việc của đôi bên (32,3%). Như vậy, trên thực tế,
quan điểm về mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo hầu như chưa
có sự thống nhất mà vẫn có nhiều quan điểm khác nhau. Thậm chí, có rất ít
người (5,4%) cho rằng tình cảm đang tồn tại giữa hai bên còn ẩn chứa tình
cảm cá nhân.
Thông qua phỏng vấn sâu, 10/10 cặp đôi đều công nhận có mối liên
hệ tình cảm nào đó giữa họ với nhà báo hoặc với nhân viên QHCC. Các cặp
số 1, số 2 và số 8 thì cảm thấy mối liên hệ giữa họ được xuất phát từ công
việc và cũng duy trì để phục vụ công việc nhiều hơn là việc nảy sinh một
tình cảm thân thiết nào đó. Các cặp còn lại thì cảm thấy tình cảm này rõ rệt
hơn thông qua việc họ hỗ trợ lẫn nhau trong công việc và ý thức xây dựng
mối quan hệ lâu dài. Thêm nữa, số ít cặp còn lại có mối liên hệ tình cảm
xuất phát từ tình bạn/tình đồng hương nên các tương tác giữa họ trở nên
thuận lợi hơn.
Nguồn gốc của yếu tố tình cảm trong mối
Số lƣợng
quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo
phiếu
Du nhập từ nước ngoài vào
7
Văn hóa VN với đặc trưng “duy tình”
25
Nhu cầu cần thiết của xã hội
32
Cả ba đáp án trên
28
Khác
1
Tổng số
93
Bảng 2.2: Đánh giá về nguồn gốc của yếu tố tình cảm trong
mối quan hệ giữa nhân viên QHCC và nhà báo
49
Tỷ lệ
7,5%
26,9%
34,4%
30,1%
1,1%
100,0%