1. Trang chủ >
  2. Khoa học xã hội >
  3. Việt Nam học >

Chương 2: MÔ TA VA PHÂN LOAI ĐIÊN CÔ, ĐIÊN TICH TRONG KHO TANG CA DAO NGƢƠI VIÊT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 125 trang )


*Bộ sách đồ sộ Kho tàng ca dao ngƣời Việt do soạn giả Nguyễn Xuân

Kính, Phan Đăng Nhật chủ biên với 12.487 đơn vị ca dao là tài liệu duy nhất

để tiến hành phân tích khảo sát.

* Truyện Kiều có nguồn gốc ở Trung Hoa, dựa trên cốt truyện của Thanh

Tâm Tài Nhân nhƣng đã đƣợc Nguyễn Du Việt Nam hoá, sáng tạo thành một

cuốn truyện thơ nổi tiếng. Đối với những bài ca dao có sử dụng điển cố, điển

tích về Truyện Kiều (Nguyễn Du), chúng tôi xếp vào thuộc điển Việt Nam

Dựa trên những quy cách đã đề ra, chúng tôi thống kê số lƣợng bài ca

dao có nội dung gắn với khảo sát từ hơn mƣời hai nghìn đơn vị ca dao trong

cuốn Kho tàng ca dao ngƣời Việt của Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng Nhật

chủ biên. Theo kết quả thu đƣợc, chúng tôi lập bảng khảo sát với điển cố, điển

tích Trung Hoa và Việt Nam chia làm 5 cột (theo thứ tự : Số thứ tự ; Tên các

điển cố, điển tích ; Tần số xuất hiện; Các lời ca dao; Số lƣợng bài) và tƣơng

ứng với từng cột là nội dung thể hiện. Nhƣng bảng khảo sát này đƣợc đƣa vào

̃

phân Phu luc cua luân văn . Việc đƣa vào trong luận văn bảng thống kê các

̀

̣ ̣

̉

̣

điển cố, điển tích giúp ích rất lớn cho độc giả muốn tìm hiểu điển cố, điển tích

trong ca dao ngƣời Việt. Sau khi tra cứu giải nghĩa ở phần từ điển, ngƣời đọc

lại có thể dễ dàng tra cứu các điển cố, điển tích về tần số xuất hiện của chúng

cũng nhƣ các lời ca dao và số lƣợng bài.

Dựa trên những căn cứ ấy, sau nhiều nỗ lực làm việc để có một kết quả

chính xác và khoa học nhất, chúng tôi thống kê đƣợc 1075 bài ca dao có nội

dung gắn với khảo sát từ hơn mƣời hai nghìn đơn vị ca dao (chiếm 8,6 %)

trong cuốn Kho tàng ca dao ngƣời Việt của Nguyễn Xuân Kính, Phan Đăng

Nhật chủ biên. Trong 1075 bài ca dao ấy, có 956 bài chứa điển cố, điển tích

Trung Hoa (chiêm 88,9 %); 93 bài chứa điển cố, điển tích Việt Nam (chiêm

́

́

8,6%), 26 bài sử dụng điển cố, điển tích của cả hai nƣớc (chiêm 2,4%). Trong

́

các điển đƣợc sử dụng, chúng tôi thống kê những điển cố, điển tích thƣờng



33



đƣợc nhắc đến nhiều nhất. Theo kết quả khảo sát đƣợc, chúng tôi thấy cha

ông ta thƣờng sử dụng chủ yếu các điển cố, điển tích sau:

- Vê điển cố điển tích Trung Quốc:

̀

Trong 982 lời ca dao có sử dụng điển cố, điển tích Trung Hoa (chiếm

7,8 % trong 12487 lời ca dao), chúng tôi thống kê đƣợc 263 điển (Xem bảng

khảo sát điển cố , điên tí ch Trung Quôc ơ phân Phụ lục của luận văn). Trong

̉

́ ̉

̀

đó những điển thƣờng đƣợc nhắc đến nhiều nhất là: Nguyệt Lão (Tơ hồng,

Ông Tơ, trăng già, bà Nguyệt, chỉ thắm, chỉ hồng) : 164 bài (251 lần), Loan

phƣợng (Phƣợng loan): 82 bài (93 lần), Đá vàng: 46 bài (46 lần), Cƣơng

thƣờng: 40 bài (45 lần), Loan phòng (Phòng loan): 36 bài (37 lần), Tấn Tần:

32 bài (35 lần), Châu Trần : 31 bài (32 lần), Trúc mai: 31 bài (35 lần), Má

đào, má hồng: 29 bài (32 lần), Tao khang: 27 bài (27 lần), Sông Ngân Hà: 26

bài (28 lần), Phƣợng hoàng Ngô đồng: 20 bài (21 lần), Cá vƣợt Vũ Môn hoá

rồng : 17 bài (19 lần), Hồng nhan: 17 bài (17 lần), Quân tử: 17 bài (19 lần),

Cầu Ô: 16 bài (17 bài), Hán Hồ: 16 bài (16 lần), Chƣơng Đài : 15 bài (15

lần).

- Vê điển cố, điển tích Việt Nam

̀

Điển cố, điển tích Việt Nam với 119 bài chiếm số lƣợng nhỏ hơn điển cố

điển tích Trung Hoa (chiếm 1% trong 12487 lời ca dao). Trong lời ca dao có

sử dụng điển Việt Nam, chúng tôi thống kê đƣợc 67 điển cố, điển tích. (Xem

bảng khảo sát điển cố , điên tí ch Viêt Nam ơ phân Phu luc cua luân văn

̉

̣

̉

̀

̣ ̣

̉

̣



).



Trong đó những điển thƣờng đƣợc nhắc đến nhiều nhất là: Cuôi: 21 bài (24

̣

lân), Kim Trong: 21 bài (22 lân), Thúy Kiều: 22 bài (39 lân), Cô Loa: 5 bài (6

̀

̣

̀

̀

̉

lân), Vân Tiên: 4 bài (4 lân), Lƣu Bì nh: 4 bài (4 lân).

̀

̀

̀

2.1.2 Phân loại kết quả khảo sát những bài ca dao sử dụng điển cố,

điển tích trong Kho tàng ca dao ngƣời Việt



34



Căn cứ vào kết quả khảo sát trên, chúng tôi tiến hành phân loại những

bài ca dao có nội dung gắn với điển cố, điển tích có một cái nhìn khoa học, cụ

thể hơn và thu đƣợc các nhóm chính dựa trên sự tƣơng đồng giữa chúng. Tất

cả các nhóm đều đƣợc lập bảng khảo sát tƣơng tự nhƣ phần kết quả khảo sát

chung. (Xem bảng khảo sát phân loại điển cố , điên tí ch ơ phân Phu luc cua

̉

̉

̀

̣ ̣

̉

luân văn).

̣

- Vê điển cố, điển tích Trung Hoa, chúng tôi phân loại làm bốn nhóm

̀

gôm: Điển cố, điển tích về nhân vật; điển cố, điển tích về địa danh; điển cố,

̀

điển tích sử dụng tích truyện; điển cố, điển tích sử dụng kinh điển Nho gia.

Điển cố, điển tích về nhân vật Trung Hoa có 96 nhân vật với các tích

truyện xoay quanh cuộc đời họ. Trong số 97 điển cố, điển tích về nhân vật,

nhân vật đƣợc nhắc đến nhiều nhất là: Nguyệt lão, Ông Tơ bà Nguyệt: 103 bài

(130 lần), Ngƣu Lang Chức Nữ : 14 bài ( 16 lần), Chị Hằng: 13 bài (13 lần),

Bá Nha: 10 bài (10 lần) , Nghiêu: 9 bài (10 lần).

Trong số 44 điển cố, điển tích về địa danh Trung Quôc, những địa danh

́

xuất hiện nhiều nhất là : Tấn Tần : 32 bài ( 35 lần), Châu Trần: 31 bài ( 32 lần),

Sông Ngân Hà: 26 bài (28 lần), Cầu Ô : 16 bài ( 17 lần), Chƣơng Đài : 15 bài (15

lần).

Điển cố, điển tích sử dụng tích truyện Trung Quốc có 45 tích truyện,

trong đó các tích truyện đƣợc sử dụng nhiều nhất là Nguyệt lão (Tơ hồng, Ông

Tơ, trăng già, bà Nguyệt, chỉ thắm, chỉ hồng) : 165 bài ( 252 lần), Ngƣu Lang

Chức Nữ, Ô Thƣớc : 24 bài (27 lần) , Cá vƣợt Vũ Môn hoá rồng: 17 bài (19

lần), Chƣơng Đài : 15 bài (15 lần) , Ba sinh : 13 bài (14 lần), Đoạn trƣờng :

12 bài (12lần ), Có công mài sắt có ngày nên kim : 10 bài (11) lần.

Trong 43 điển cố, điển tích Trung Hoa sử dụng kinh điển Nho gia,

những điển thƣờng xuất hiện nhiều nhất là: Cƣơng thƣờng (Cang thƣờng): 40

bài ( 45 lần), Má đào, Má hồng: 29 bài ( 32 lần), Phƣợng hoàng- ngô đồng :



35



20 bài (21 lần), Quân tử : 17 bài (19 lần), Cầm sắt : 13 bài (14 lần), Tam tòng

: 12 bài (12 lần), Thục nữ : 10 bài (10 lần), Cá nƣớc: 8 bài ( 11 lần).

- Vê đ iển cố, điển tích Việt Nam: chúng tôi phân loai lam hai nhom

̀

̣ ̀

́

gôm điển cố, điển tích về nhân vật và điển cố, điển tích về địa danh.

̀

Điển cố, điển tích về nhân vât Viêt Nam có 41 điển. Nhƣng điên xuât

̣

̣

̃

̉

́

hiên nhiêu nhât la

̣

̀

́ ̀



Cuôi: 21 bài (24 lân), Kim Trong : 21 bài (22 lân), Thúy

̣

̀

̣

̀



Kiêu: 22 bài (39 lân), Vân Tiên: 4 bài (4 lân), Lƣu Bì nh: 4 bài (4 lân).

̀

̀

̀

̀

Điển cố, điển tích về địa danh có 25 điển đã đƣợc sử dụng, xuât hiên

́

̣

nhiêu nhât la đị a danh Cô Loa: 5 bài (6 lân).

̀

́ ̀

̉

̀

2.2. Bƣớc đầu nhận xét về tần số sử dụng điển và lí giải nguyên nhân

của sự “trùng lặp” điển cố, điển tích trong Kho tàng ca dao ngƣời Việt qua

việc so sánh về số lƣợng

Trong 1075 bài ca dao đa thông kê , có 956 bài chứa điển cố , điển tích

̃ ́

Trung Hoa (chiêm 88,9 %); 93 bài chứa điển cố , điển tích Việt Nam (chiêm

́

́

8,6%), 26 bài sử dụng điển cố , điển tích của cả hai nƣớc (chiêm 2,4%). Nhƣ

́

vậy số lƣợng các bài ca dao sử dụng điển Trung Hoa chiếm tỉ lệ lớn hơn rất

nhiều

- Từ việc thống kê và phân loại 982 bài ca dao có sử dụng điển cố điển

tích Trung Hoa, chúng tôi thấy tần số xuất hiện của mỗi loại điển cố, điển tích

có sự khác nhau (xem bảng sau):



STT Tên điển cố, điển Số

tích Trung Hoa

lƣợng

(điển)



1.



Điển cố điển tích 263

nói chung



Số bài ca dao sử

dụng điển

Trung Hoa

(trong một bài

có thể có nhiều

điển) (bài)

1383



36



Tần số xuất hiện của

điển cố, điển tích

Trung Hoa (lần)



1535 (100%)



2.



Điển cố, điển

về nhân vật

Điển cố, điển

về tích truyện

Điển cố, điển

về địa danh

Điển cố, điển

sử dụng kinh

Nho gia



3.

4.

5.



tích 96



352



tích 45



366



tích 44



254



tích 43

điển



214



385 (Chiếm số

25 %)

458 (Chiếm số

30 %)

270 ( Chiếm số

17 %)

231 (Chiếm số

15 %)



lƣợng

lƣợng

lƣợng

lƣợng



Điển cố, điển tích sử dụng tích truyện chiếm số lƣợng nhiều nhất với 366

lời ca dao và tần số xuất hiện là 385 lần (chiếm 30 % tổng tần số xuất hiện

điển cố, điển tích Trung Hoa trong Kho tàng ca dao ngƣời Việt). Điển cố,

điển tích về nhân vật có số lƣợng đứng thứ hai với 352 bài ca dao và tần số

xuất hiện là 385 lần (chiếm 25 %). Điển cố, điển tích về địa danh đứng thứ ba

với 254 lời ca dao sử dụng điển cố, điển tích Trung Hoa và tần số xuất hiện là

270 lần (chiếm 17 %). Điển cố, điển tích sử dụng kinh điển Nho gia có số

lƣợng đứng cuối cùng với 214 bài ca dao và tần số xuất hiện là 231 lần (chiếm

15%). Tại sao những điển cố, điển tích ấy lại xuất hiện với tần số cao hơn các

điển cố, điển tích khác? Chúng tôi sẽ trả lời rõ hơn trong phần nội dung các

bài ca dao dƣới đây

- Thống kê và phân loại 119 bài ca dao có sử dụng điển cố điển tích

Việt Nam, chúng tôi thấy tần số xuất hiện của mỗi loại điển cố, điển tích cũng

có sự khác nhau:



STT



Tên điển cố, điển Số

Số bài ca dao sử Tần số xuất hiện của

tích Việt Nam

lƣợng dụng điển Việt

điển cố, điển tích Việt

(điển) Nam (trong một Nam (lần)

bài có thể có

nhiều điển)



37



(bài)

1. Điển cố điển tích 67

nói chung

2. Điển cố, điển tích 41

về nhân vật

3. Điển cố, điển tích 25

về địa danh



172



196 (100%)



135



162(Chiếm số lƣợng 82

%)

36 (Chiếm số lƣợng 18

%)



37



Điên cô , điên tí ch vê nhân vât chiê m sô lƣơng lơn nhât vơi 140 bài ca

̉

́

̉

̀

̣

́

́

̣

́

́ ́

dao va 167 lân xuât hiên (chiêm 85 %). Điên cô , điên tí ch vê đị a danh Viêt

̀

̀

́

̣

́

̉

́

̉

̀

̣

Nam í t hơn vơi 36 bài ca dao và 37 lân xuât hiên (chiêm 18 %)

́

̀

́

̣

́

Nhƣ đa noi ơ phân kêt qua khao sat , một điều dễ nhận thấy là các điển

̃ ́ ̉

̀

́

̉

̉

́

cố, điển tích xuất hiện với tần số khá lớn và nhiều điển cố, điển tích có sự

trùng lặp gây ra những hiệu quả nghệ thuật nhất định. Ví dụ : Nguyệt Lão (Tơ

hồng, Ông Tơ, trăng già, bà Nguyệt, chỉ thắm, chỉ hồng) : 164 bài (251 lần),

Đá vàng: 46 bài (46 lần), Tấn Tần: 32 bài (35 lần), Châu Trần : 31 bài (32

lần)…vv. Những điển đó trở nên gần gũi quen thuộc với dân gian, dễ hiểu dễ

nhớ, dễ tạo đƣợc những ấn tƣợng thẩm mĩ. Nhà nghiên cứu Đặng Văn Lung

cho rằng: “Lặp đi lặp lại một số yếu tố nào đấy là hiện tƣợng phổ biến trong

văn học nói chung, nhờ đó ta có thể phân biệt đƣợc nhà văn này với nhà văn

khác, trào lƣu văn học này với trào lƣu văn học khác. (…) Riêng trong văn

học dân gian, những yếu tố trùng lặp chiếm một tỉ lệ lớn và có một vai trò

quan trọng, đặc biệt là trong ca dao. Yếu tố trùng lặp gắn liền với những đặc

điểm tƣ tƣởng và nghệ thuật của sáng tác dân gian; nó trực tiếp liên hệ với tài

năng văn nghệ của nhân dân, với kinh nghiệm sống và thế giới quan của nhân

dân.”[26, tr.66]

Khi nghiên cứu thần thoại, anh hùng ca và truyện cổ tích, nhiều tác giả

đã lập đƣợc những hệ thống mô típ trùng lặp và nhờ đó mà giải quyết nhiều

vấn đề lý thú. Riêng trong lĩnh vực thơ ca dân gian thì còn ít ngƣời bàn tới



38



vấn đề này. Phải chăng chúng ta có thể bắt đầu từ yếu tố trùng lặp trong ca

dao mà tìm hiểu đƣợc phần nào cái mà chúng ta gọi là “chất ca dao”. Nhƣng

thế nào là trùng lặp? Thuật ngữ trùng lặp ở đây hoàn toàn không có nghĩa xấu

của chữ “lặp lại” (lặp lại một cách đơn giản, máy móc) mà trái lại để chỉ ra

những nét đã định hình, đã là truyền thống của ca dao. Sự trùng lặp đƣợc thể

hiện rất rõ trong ca dao tình yêu đôi lứa. Khi tiến hành phân loại, chúng tôi

đã nhận thấy điều đó. Ví dụ về sự trùng lặp đƣợc thể hiện ở điều đặc biệt là

trong số 982 lời ca dao chứa điển cố, điển tích Trung Hoa, chúng tôi thống kê

đƣợc 741 lời ca dao có chứa chủ đề về tình yêu, tình cảm lứa đôi (chiếm số

lƣợng rất lớn: 75%) và không phải ngẫu nhiên mà chủ đề tình yêu trong

những bài ca dao chứa điển cố, điển tích Trung Hoa lại xuất hiện thành một

tập hợp với số lƣợng phong phú nhƣ vậy. Dân gian ta đã lợi dụng tính chất

nói ít gợi nhiều của điển cố, điển tích để diễn tả tình cảm lứa đôi với rất nhiều

cung bậc khác nhau. Nguyễn Phƣơng Châm trong bài viết của mình cũng cho

rằng: “Những lời ca dao mang điển cố, điển tích Hán chủ yếu thuộc chủ đề

tình yêu nam nữ, dùng những câu chuyện cổ để khẳng định tình yêu cũng nhƣ

nói lên biết bao tâm trạng phức tạp của tình cảm con ngƣời’’ [5, tr.54-57].

Câu hỏi đặt ra ở đây là: tại sao tác giả dân gian lại chú ý miêu tả “loại” hiện

thực này mà ít hoặc không lƣu tâm đến “loại” hiện tƣợng khác? Và loại hiện

thực đƣợc miêu tả, phản ánh đó có quan hệ nhƣ thế nào đối với đời sống tâm

tƣ, tình cảm của ngƣời sáng tác và tiếp nhận tác phẩm ở thời điểm lịch sử ấy?

Phải chăng nó cũng thể hiện một phần hiện thực đời sống xã hội của nhân dân

ta lúc bấy giờ?

Trong xã hội phong kiến, các thể loại văn học dân gian trong đó có ca

dao phát triển mạnh mẽ và phát huy tích cực vai trò của nó trong đời sống xã

hội nhƣ: Truyện cƣời làm nên sức mạnh phê bình, giáo dục và đả phá châm

biếm hữu hiệu; Tục ngữ đánh thức nhận thức dân gian bằng những kinh



39



nghiệm sống thiết thực và sâu sắc...Những thể loại văn học dân gian ít nhiều

đều thể hiện đƣợc những nét bản chất của thời kỳ lịch sử đó, một thời kỳ lịch

sử đầy biến động trong xã hội phong kiến. Tuy nhiên vấn đề con ngƣời và

quyền sống, quyền khát khao hạnh phúc đƣợc thể hiện một cách trực cảm,

sinh động và có sức lay động lòng ngƣời hơn cả là trong thơ ca dân gian, đặc

biệt là trong mảng những điển cố, điển tích Trung Hoa của ca dao có chứa đề

tài tình yêu đôi lứa.

Có thể nói trong xã hội phong kiến Việt Nam, đặc biệt là từ thế kỷ XVI

trở đi đang bƣớc vào con đƣờng suy vong, đời sống đại bộ phận quần chúng

lao động hết sức cực khổ. Quyền lợi vật chất của họ bị Nhà nƣớc phong kiến

cố ý hoặc vô tình tƣớc đoạt. Không những thế đời sống tinh thần của họ còn

bị kiềm chế, phong toả bởi các lễ giáo, luật pháp của Nhà nƣớc phong kiến,

đặc biệt là những quy định hà khắc phi lý về hôn nhân và gia đình phụ quyền.

Nhƣ vậy tình yêu đôi lứa là vấn đề có ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã

hội đƣơng thời, đóng vai trò là đề tài trung tâm của ca dao cổ truyền cả về

hình thức và nội dung. Có thể nói những lời ca dao cổ truyền về đề tài tình

yêu xuất hiện nhiều là sự đáp ứng tự nhiên nhu cầu diễn tả tâm tƣ, tình cảm

của đại bộ phận quần chúng lao động.

Phải chăng, sự cực nhọc trong đời sống vật chất, sự o ép ức chế về đời

sống tinh thần khiến cho ngƣời dân hơn lúc nào hết càng có nhu cầu cần bộc

lộ, càng có tâm lý giải toả. Chống lại nhà nƣớc và lễ giáo phong kiến thì

không đủ sức và tƣ tƣởng phong kiến có lẽ đã ăn sâu vào đời sống, rồi “biến

thiên” không dễ gì nhận biết mà gạt bỏ. Trong ca dao, ngƣời nông dân nói

nhiều về tình yêu và gia đình có lẽ còn bởi đó là những hạnh phúc gần gũi,

thiết thực, là lẽ tự nhiên mà họ khao khát mong mỏi nhƣng trong thực tế họ

chƣa đƣợc hƣởng một cách trọn vẹn. Trong tình yêu ấy, nam nữ thanh niên

thƣờng gặp phải rất nhiều rào cản từ mọi phía: những luật tục của xã hội



40



phong kiến, của gia đình phụ quyền nhƣ: “môn đăng hộ đối”, “cha mẹ đặt đâu

con ngồi đấy”, tục thách cƣới…vv dẫn đến bao đau khổ cho những cuộc tình

lỡ dở, trái ngang, yêu nhau mà không đến đƣợc với nhau. Vì thế họ đã bày tỏ

tấm lòng và quyết tâm sắt đá của mình qua những lời thề chung thuỷ: sống

chết có nhau. Điều đó cũng phản ánh đời sống tình cảm quý báu của ngƣời

dân, ấy là trọng nghĩa, trọng tình .

Không thể chỉ nói đến nguyên nhân từ xã hội, nguyên nhân từ chính

văn học nghệ thuật cũng đóng một vai trò quan trọng. Chức năng và ƣu thế

của thể loại đã giúp ca dao bộc lộ sâu sắc và uyển chuyển nhất những cung

bậc tình cảm trong sâu thẳm tâm hồn con ngƣời. Mà tình cảm riêng tƣ lại dễ

làm lòng ngƣời trong giai đoạn lịch sử này mềm yếu và rung động nhất.

Vì vậy ta dễ thấy nội dung và hình thức của ca dao sử dụng điển cố,

điển tích có sự trùng lặp do nhiều nguyên nhân nhƣ:

- Trƣớc hết, các đề tài mà ca dao sử dụng điển cố, điển tích lựa chọn

phần lớn xoáy vào khẳng định tình cảm, tình yêu đôi lứa và củng cố tình cảm

tốt đẹp ấy. Những hình tƣợng thuộc đề tài ấy đƣợc lặp lại trong nhiều câu ca

dao đồng thời những tình cảm cũng đƣợc lặp lại liên tiếp. Đồng thời ca dao là

sáng tác tập thể, ngƣời sáng tác ca dao nói nhƣ tập thể nói, vận dụng hình ảnh

nhƣ tập thể vận dụng. Cái đẹp của câu ca dao chỉ có thể có khi nó thoả mãn

thị hiếu và tình cảm của tập thể. Do chỉ có hình ảnh của những cái chung, cái

khái quát nên dẫn đến việc trùng lặp nhiều.

- Ca dao đƣợc sáng tác và lƣu truyền bằng miệng, chủ yếu là trong các

buổi hát đối đáp của quần chúng cho nên đƣợc tập thể gọt giũa, sửa chữa đến

mức tinh xác nhất, sáng đẹp nhất. Vì vậy mà ca dao mang phong cách tập thể.

Phong cách ấy làm cho ca dao có sự thống nhất hữu cơ của một loại hình văn

học. Chính cách sáng tác và điều kiện sáng tác lƣu truyền ấy cũng góp phần

tạo ra những yếu tố trùng lặp trong ca dao chứa điển cố, điển tích .



41



2.3. Một số vấn đề về nội dung các bài ca dao sử dụng điển cố, điển

tích trong Kho tàng ca dao ngƣời Việt

Nội dung của điển cố, điển tích rất phong phú thể hiện nhiều mặt của

cuộc sống nhƣ tình cảm lứa đôi, đƣa ra những triết lí, đúc kết những kinh

nghiệm hay những quy tắc ứng xử trong xã hội…vv

Về khái niệm “ca dao”, theo các nhà Nho có sƣu tầm, ghi chép ca dao

và giới nghiên cứu Văn học dân gian, thuật ngữ “ca dao” đƣợc hiểu theo ba

nghĩa rộng hẹp khác nhau:

-Ca dao là danh từ ghép chỉ chung toàn bộ những bài hát lƣu hành phổ

biến trong dân gian có hoặc không có khúc điệu. Trong trƣờng hợp này ca

dao đồng nghĩa với dân ca [ 13, tr.22].

- Ca dao là danh từ chỉ thành phần ngôn từ (phần lời ca) của dân ca

(không kể những tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đƣa hơi) [ 13, tr.23].

- Không phải toàn bộ những câu hát của một loại dân ca nào đó cứ

tƣớc bớt tiếng đệm, tiếng láy, tiếng đƣa hơi … thì sẽ là ca dao. Ca dao là

những sáng tác văn chƣơng đƣợc phổ biến rộng rãi, đƣợc lƣu truyền qua

nhiều thế hệ, mang những đặc điểm nhất định và bền vững về phong cách và

ca dao đã trở thành một thuật ngữ dùng để chỉ một thể thơ dân gian [23,

tr.79].

Trong cuốn sách Kho tàng ca dao ngƣời Việt mà chúng tôi dùng để khảo

sát, ca dao đƣợc thể hiện theo nghĩa thứ hai nhƣ trên. Chúng tôi xin đƣợc nêu

rõ nhƣ vậy nhằm làm quá trình nghiên cứu đƣợc thực hiện nhất quán khi sử

dụng các tài liệu biên soạn ca dao để phân tích. Có thể nói “muốn hiểu biết về

tình cảm của nhân dân Việt Nam xem dồi dào, thắm thiết, sâu sắc đến mức độ

nào, rung động nhiều hơn cả về những khía cạnh nào của cuộc đời thì không

thể nào không nghiên cứu ca dao Việt Nam mà hiểu biết đƣợc’’ (Vũ Ngọc

Phan) [22]. Đồng thời, muốn hiểu biết xem những kinh nghiệm, những tri



42



thức của nhân dân ta phong phú nhƣ thế nào thì cũng không thể nào không

nghiên cứu kho tàng văn học dân gian trong đó có ca dao - thể loại dân gian

trữ tình dễ đi vào lòng ngƣời nhất.

Trong ca dao, do đặc trƣng sáng tác và đặc điểm ngắn gọn của tác

phẩm, mỗi lời (mỗi tác phẩm) ca dao thƣờng chỉ đủ dung lƣợng để chứa một

đề tài - một loại hiện tƣợng đời sống. Ngay cả một loại hiện tƣợng đời sống –

một đề tài thì một lời ca dao thƣờng cũng chƣa phản ánh đƣợc đầy đủ. Vì vậy,

chúng tôi tìm hiểu những bài ca dao ấy theo từng chuỗi lời ca dao, từng bộ

phận ca dao trong những thời điểm lịch sử nhất định:

2.3.1 Điển cố, điển tích Trung Hoa

2.3.1.1 Nội dung điển cố, điển tích về nhân vật

Các nhân vật trong điển cố, điển tích có thể là những ngƣời có thực

trong lịch sử nhƣ các danh tƣớng, danh sĩ, các nhân vật hào kiệt trong dân

gian. Họ cũng thƣờng đƣợc bao bọc trong làn khói của huyền thoại. Đây cũng

chính là thể hiện sự tôn kính và yêu mến của dân gian đối với những ngƣời có

công với dân với nƣớc, không hề phân biệt nhân vật đó là công dân của nƣớc

nào, đồng thời cũng thể hiện sự giao lƣu văn hoá giữa hai dân tộc ViệtTrung. Cả thời xƣa lẫn thời nay, nhân dân đều có điểm chung về thái độ đối

với các vĩ nhân, đó là các huyền thoại sinh ra xung quanh cuộc đời và sự

nghiệp của họ. Tên các danh nhân có mặt trong những điển cố vốn có xuất xứ

từ các tác phẩm văn học, khi nhà văn, nhà thơ gắn tên tuổi họ với một cảnh

huống cụ thể. Ví dụ: Nhân vật Khổng Minh, tức Gia Cát Lƣợng, ngƣời đất

Trƣơng Dƣơng, đời Tam Quốc. Khổng Minh ở ẩn, làm ruộng tại Ngoạ Long

Cƣơng ( nay là huyện Nam Dƣơng, tỉnh Hà Nam, Trung Quốc). Lƣu Bị về

sau là chúa Hán Thục ba lần đến tận nhà mời Khổng Minh mới ra giúp. Ông

trở thành quân sƣ của Lƣu Bị, giúp Lƣu Bị đánh bại Tào Tháo trong trận Xích

Bích, lấy đƣợc Kinh Châu và Ích Châu, Hán Trung, dựng nƣớc ở Thục.



43



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (125 trang)

×