1. Trang chủ >
  2. Giáo án - Bài giảng >
  3. Cao đẳng - Đại học >

b. Các nguồn bổ trợ của LQT

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 131 trang )


Câu hỏi ôn tập

Đây là các nguyên tắc pháp lý được cả pháp luật quốc gia và pháp luật quốc tế thừa nhận

và được áp dụng để giải quyết tranh chấp giữa các quốc gia (theo điều 38(1) Quy chế tòa án

công lý quốc tế). VD: nguyên tắc gây thiệt hạit hì phải bồi thường, nguyên tắc không ai là

quan tòa chính trong vụ việc của mình...trong thực tiễn, nguyên tắc pháp luật chung chỉ áp

dụng sau điều ước quốc tế và tập quán quốc tế với ý nghĩa để giải thích hay làm sáng tỏ nội

dung của quy phạm LQT

 Phán quyết của Tòa án công lý quốc tế

- Trong đời sống quốc tế, tồn tại nhiều loại tòa án khác nhau như: Tòa án công lý quốc tế

của Liên hợp quốc, Tòa án nhân quyền Châu Âu, Tòa án luật biển, Tòa án Châu Âu...Tuy

nhiên, khi nói đến phán quyết của tòa án với vai trò là nguồn bổ trợ của LQT, chúng ta chủ

yếu đề cập đến các phán quyết của tòa án công lý quốc tế.

- Bản thân các phán quyết là kết quả của quá trình áp dụng pháp luật của tòa án trong quá

trình giải quyết tranh chấp quốc tế, và các quyết định tài phán này chỉ có giá trị ràng buộc đối

với các bên tranh chấp. Điều 59 Quy chế Tòa án quy định "Quyết định của tòa án có giá trị bắt

buộc chỉ đối với các bên tham gia vụ án và chỉ đối với các vụ án cụ thể đó". Sở dĩ các phán

quyết này không thể trở thành nguồn cơ bản của LQT vì các nguồn cơ bản phải được hình

thành trên cơ sở của sự thỏa thuận giữa các chủ thể LQT.

- Vai trò của các phán quyết: Từ một quy tắc, quy phạm chưa được giải thích, còn chung

chung, mơ hồ, khó hiểu, sau khi được các thẩm phán có trình độ và uy tín cao giải thích, các

quy tắc, quy phạm LQT sẽ trở lên rõ ràng, sáng tỏ hơn. Đây là đóng góp quan trọng của các

phán quyết của tòa án quốc tế đối với quá trình giải thích LQT và tạo tiền đề cho sự hình

thành các quy phạm mới (VD: Trong vụ tranh chấp giữa Nauy và Anh. Phán quyết của tòa

trong trường hợp này đã tạo tiền đề cho sự hình thành quy phạm về việc xác định đường cơ sở

thẳng đối với các quốc gia có đường bờ biển khúc khuỷu trong quan hệ quốc tế liên quan đến

biển).

 Nghị quyết của các tổ chức quốc tế

- Nghị quyết: Là văn bản do các cơ quan có thẩm quyền của tổ chức quốc tế thông qua. ở

đây, do LQT chỉ đề cập đến tổ chức quốc tế liên chính phủ nên các nghị quyết là nguồn bổ trợ

Page 24



Câu hỏi ôn tập

của LQT cũng chỉ dừng lại ở các nghị quyết của các tổ chức quốc tế liên chính phủ, mà tiêu

biểu là nghị quyết của Liên hợp quốc - tổ chức quốc tế đa phương toàn cầu lớn nhất hiện nay.

- Nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ được chia làm 2 loại:

+ Nghị quyết có giá trị bắt buộc: các nghị quyết này chủ yếu quy định các vấn đề liên quan

đến các đóng góp cho hoạt động cua tổ chức... những nghị quyết này sẽ là nguồn luật được

viện dẫn đến để giải quyết các quan hệ phát sinh giữa các quốc gia thành viên của tổ chức đó.

+ Nghị quyết có tính chất khuyến nghị: nhằm hướng dẫn, giải thích các quy phạm LQT và

thể hiện cách nhìn của tổ chức quốc tế về một vấn đề nào đó.

(Câu hỏi đặt ra: Nghị quyết của tổ chức liên chính phủ có tính chất là điều ước quốc tế và

được gọi là điều ước quốc tế hay không? Nghị quyết của tổ chức quốc tế liên chính phủ không

được gọi là điều ước quốc tế vì nghị quyết được đưa ra nhân danh một chủ thể nhất định, chứ

không phải là sự thỏa thuận của các chủ thể. Do đó, mặc dù nó có giá trị bắt buộc với các

quốc gia thành viên, nhưng nó không phải điều ước quốc tế.

- Trong quan hệ quốc tế, các chủ thể LQT thường quan tâm đến các nghị quyết của Liên

hợp quốc vì tính chất toàn cầu của tổ chức này. Lưu ý rằng, không phải mọi nghị quyết của tổ

chức liên chính phủ đều được xếp vào nhóm này, chỉ những nghị quyết chứa đựng nội dung

liên quan đến các vấn đề kinh tế, xã hội...còn những nghị quyết có tính chất gây hại đến quan

hệ giũa các quốc gia sẽ không được xếp vào nhóm này. (Mọi nghị quyết của Hội đồng bảo an

Liên hợp quốc đều có giá trị ràng buộc với các quốc gia thành viên, ngoại trừ các nghị quyết

liên quan đến hành chính và thủ tục).

 Hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia

- Đây là những hành vi thể hiện ý chí độc lập của chủ thể LQT. Hành vi đơn phương của

các quốc gia có thể được thể hiện dưới nhiều hình thức: tuyên bố, công hàm, phát biểu của các

vị lãnh đạo Nhà nước, tuyên bố chung...bất cứ hành vi nào cũng làm phát sinh nghĩa vụ đối

với quốc gia đưa ra hành vi đó. Những nghĩa vụ đó có thể là những nghĩa vụ mang tính chính

trị, đạo đức. Việc từ chối không thực hiện những cam kết đơn phương này sẽ làm giảm sút uy

tín của quốc gia trong quan hệ quốc tế. Hiện nay, các hành vi đơn phương ngày càng đóng vai

trò quan trọng.

Page 25



Câu hỏi ôn tập

- Về bản chất, hành vi pháp lý đơn phương của quốc gia không được coi là nguồn của luật

quốc tế, vì nó không đảm bảo yếu tố "thỏa thuận" trong đó. Tuy nhiên, nó sẽ trở thành nguồn

bổ trợ của luật quốc tế khi hành vi đơn phương này "có khả năng" tạo ra quyền và nghĩa vụ

cho các chủ thể khác trong quan hệ quốc tế.

VD: Thụy sỹ đơn phương đưa ra tuyên bố sẽ trở thành quốc gia trung lập vĩnh viễn.

Hành vi pháp lý đơn phương của chủ thể LQT thường có các dạng sau:

+) Hành vi công nhận: là hành vi thể hiện một cách minh thị hoặc mặc thị ý định xác nhận

một tình hình hoặc yêu cầu nào đó phù hợp với pháp luật.

VD: - Việt nam công nhận Đông Timo là quốc gia độc lập, có chủ quyền.

- Ngày 1/10/2008 Somali cũng tuyên bố đang tiến hành chuẩn bị các thủ tục cần thiết cho việc

công nhận nền độc lập của hai khu vực mới ly khai khỏi Gruzia là Nam Ossetia và Apkhazi

thông qua tuyên bố đơn phương muốn thiết lập quan hệ ngoại giao với các khu vực này.

+) Hành vi cam kết: là hành vi tạo ra các nghĩa vụ pháp lý mới bằng cách đơn phương

chấp nhận ràng buộc với một nghĩa vụ pháp lý quốc tế vì quyền lợi của chủ thể khác.

VD: Tuyên bố của chính phủ Ai Cập năm 1957 về việc cho phép tàu thuyền qua lại tự do

trên kênh đào Xuy-ê.

+) Hành vi phản đối: là cách thức một quốc gia thể hiện ý chí không công nhận một hoàn

cảnh, một yêu cầu hoặc một thái độ xử sự của chủ thể khác. Hành vi này phải được biểu thị

minh thị, do cơ quan có thẩm quyền tiến hành.

VD: Phản đối hành vi công nhận nền độc lập của Nam Ossetia và Apkhazia từ phía Nga,

đại diện của Mỹ (cụ thể là tổng thống và ngoại trưởng Mỹ) đã phát biểu công khai yêu cầu

Nga phải xem xét lại hành vi công nhận của mình và cho rằng việc Nga công nhận nền độc

lập của 2 khu vực này là đi ngược lại với các qui định của pháp luật quốc tế, đồng thời Mỹ

cũng đưa ra tuyến bố rằng sẽ sử dụng quyền phủ quyết của mình để ngăn chặn mọi xử sự

không phù hợp của Nga nhằm công nhận hoặc thiết lập quan hệ với 2 khu vực này.

+) Hành vi từ bỏ: là hành vi thể hiện ý chí độc lập của chủ thể tự nguyện từ bỏ các quyền

hạn nhất định.

VD: Trường hợp của Thụy sỹ, hoặc Nhật bản sau chiến tranh thế giới thứ II đã tuyên bố từ

bỏ chủ quyền của mình đối với quần đảo Fonmôsa.

Page 26



Câu hỏi ôn tập

 Các học thuyết của các học giả danh tiếng về LQT

- Các học thuyết về LQT là những tư tưởng, quan điểm thể hiện trong các công trình

nghiên cứu, tác phẩm và kết luận của các tác giả về những vấn đề lý luận cơ bản của LQT. Do

vậy, trong các học thuyết này đôi khi lại đưa ra các kiến giải góp phần làm sáng tỏ nội dung

của các quy phạm pháp luật quốc tế và giúp các chủ thể LQT áp dụng chúng dễ dàng hơn.

- Các học thuyết của các học giả danh tiếng về LQT không phải là nguồn cơ bản của LQT

vì: chúng không phải văn bản pháp lý ràng buộc các quốc gia, không thể hiện ý chí của các

quốc gia được nâng lên thành luật; bản thân các học thuyết này không chứa đựng các quy

phạm pháp luật làm phát sinh quyền và nghĩa vụ cho các quốc gia; chúng không được áp dụng

một cách thường xuyên trong quan hệ quốc tế. Tuy vậy, các học thuyết này được coi là nguồn

bổ trợ của LQT vì những ảnh hưởng tích cực của chúng đến quá trình phát triển của LQT và

quá trình nhận thức của con người về khoa học luật quốc tế.

VD: Các luận điểm trong tác phẩm "Biển quốc tế" của tác giả Hugues Grotius có ảnh

hưởng rất lớn đến quá trình xây dựng Luật biển quốc tế.



67.



So sánh TQQT với ĐUQT, phân tích mối quan hệ giữa hai loại nguồn



này.

Vấn đề nguồn của luật quốc tế có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về pháp lý và thực tiễn vì nó

liên quan chặt chẽ đến việc xác định sự hình thành của quan hệ pháp luật quốc tế nói riêng và

quá trình thực thi luật quốc tế nói chung.

Về mặt pháp lý, nguồn của luật quốc tế là hình thức chứa đựng các quy phạm luật quốc tế.

Căn cứ khoản 1 Điều 38 Quy chế tòa án công lý quốc tế thì nguồn của Luật Quốc tế gồm:

- Điều ước quốc tế ( ĐƯQT);

- Tập quán quốc tế ( TQQT);

- Các nguyên tắc pháp luật chung;

- Phán quyết của Tòa án công lý quốc tế;

- Học thuyết của các luật gia danh tiếng về luật quốc tế.



Page 27



Câu hỏi ôn tập

Tuy nhiên, khoản 1 Điều 38 chưa phản ánh hết các nguồn, căn cứ thực tiễn, nguồn của Luật

Quốc tế còn bao gồm các nghị quyết của tổ chức quốc tế và hành vi pháp lý đơn phương của

các quốc gia.

Trong các loại nguồn trên thì điều ước quốc tế và tập quán quốc tế có thể coi là hai loại

nguồn chính yếu và quan trọng nhất, giữa chúng có những điểm tương đồng và khác biệt cụ

thể ra sao, bài viết này xin được làm rõ.

 Khái niệm

- Theo công ước Viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế và Luật về ký kết gia nhập và

thực hiện Điều ước quốc tế năm 2005 của Việt Nam thì “ Điều ước quốc tế là văn bản ghi

nhận thỏa thuận của các chủ thể luật quốc tế và được luật quốc tế điều chỉnh, không phụ thuộc

vào tên gọi của văn bản cũng như không phụ thuộc vào việc nó được ghi nhận trong một hay

nhiều văn kiện có quan hệ với nhau”.

- “Tập quán quốc tế là hình thức pháp lý chứa đựng quy tắc xử sự chung, hình thành trong

thực tiễn quan hệ quốc tế và được các chủ thể luật quốc tế thừa nhận là luật”.

 Sự giống nhau

- Chủ thể của điều ước quốc tế và tập quán quốc tế đều là chủ thể của luật quốc tế nói

chung.

- Cả điều ước quốc tế và tập quán quốc tế đều chứa đựng các quy tắc xử sự điều chỉnh các

quan hệ của luật quốc tế. Để trở thành nguồn của luật quốc tế thì đương nhiên, điều ước quốc

tế, tập quán quốc tế hay bất kỳ loại nguồn nào khác cũng đều phải chứa đựng cá quy tắc xử

sự, điều chỉnh các quan hệ quốc tế.

- Điều ước quốc tế và tập quán quốc tế đều hình thành bằng con đường thỏa thuận giữa các

chủ thể của luật quốc tế. Như đã biết, thỏa thuận chính là bản chất của luật quốc tế, trên cơ sở

cân nhắc về lợi ích của chính mình mà các chủ thể của luật quốc tế ký kết, tham gia các điều

ước quốc tế, cũng như áp dụng một tập quán quốc tế nào đó.

- Đều có hiệu lực pháp lý bắt buộc.

 Sự khác nhau

Page 28



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (131 trang)

×