Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 131 trang )
Câu hỏi ôn tập
quyết đó không được thông qua.
- Quy định về thủ tục thông qua nghị quyết của HDBA đòi hỏi làm sáng tỏ 1 số vấn đề :
+ “ các vấn đề thủ tục là gì”
+làm thế nào xác định đâu là các vấn đề thủ tục
+ các vấn đề khác là gì?
- Chính vì sự không rõ ràng này đã dẫn đến thực tiễn là “phủ quyết kép”: đó là khả năng các
TVTT của HDBA sử dụng quyền phủ quyết 2 lần khi 1 NQ của HDBA chưa xác định được là
vấn đề thủ tục hay không. Mục đích sử dụng quyền này là để các thành viên thường trực của
HĐ bỏ phiếu 2 lần cản trở NQ không có lợi cho họ. (ko nhất trí về tính chất của NQ => bỏ
phiếu xác định có phải là thủ tục không=> bỏ phiếu chống=> vấn đề khác => có quyền phủ
quyết tiếp=> phủ quyết kép)
thông tin bên lề: Kề từ khi Liên hiệp quốc được thành lập năm vào 1945 đã có 251 phủ
quyết. Trong số 251 này, Nga hay Liên Xô cũ dùng nhiều nhất (120 lần) => Ngoại trưởng
Liên xô : mr NO, kế đến là Mĩ (75 lần), Anh (32 lần), Pháp (18 lần), và Trung Quốc (5lần) (số
liệu cũ, đọc để tham khảo độ nhiều thui nha). Ngoại trưởng Liên xô
2: ảnh hưởng:
“Quyền phủ quyết Veto là quyền của một quốc gia là thành viên thường trực của HDBA bỏ
phiếu chống để ngăn cản việc thông qua nghị quyết của HDBA về một vấn đề không liên
quan đến thủ tục khi các thành viên của hdba bỏ phiếu thông qua.”
- Veto là một phiếu phủ quyết của một thành viên thường trực HDBA về một quyết định
mang tính quan trọng. Vì thế veto có thể được coi là sự thất bại của HDBA trong việc thông
qua một nghị quyết do một hoặc nhiều thành viên HDBA bỏ phiếu chống trong một cuộc bỏ
phiếu mà 9 hoặc nhiều hơn các thành viên HDBA bỏ phiếu thuận -> VETO ngăn cản sự ra đời
của một ý chí chính trị tập thể dưới dạng văn bản của HDBA liên quan đến chức năng chính
là gìn giữ hòa bình và an ninh quốc tế của HDBA.
+ Veto có ảnh hưởng rất lớn đến việc đưa ra các quyết định của cả HDBA. Thực tế cho
thấy trong nhiều trường hợp việc đe dọa sử dụng quyền veto trong các cuộc họp không chính
thức còn quan trong hơn việc sử dụng thực sự quyền veto trong các cuộc họp chính thức.
Page 83
Câu hỏi ôn tập
+ Quyền veto chính là công cụ để các thành viên thường trực HDBA thực thi quyền lực của
mình. Nếu bất kì một thành viên thường trực HDBA nào phủ quyết một đề xuất thì HDBA
hoàn toàn bị tê liệt.
+ nhóm nước P5 vẫn tiếp tục gây sức ép với HDBA bằng các phiếu phủ quyết ngầm hoặc
đe dọa dùng quyền phủ quyết.
- 5 thành viên thường trực sd veto ngầm chủ yếu tại các phiên họp tham vấn không chính
thức. Bằng việc đưa ra cảnh báo về việc sử dụng quyền phủ quyết trước khi các cuộc bỏ phiếu
diễn ra, P5 hầu như thuyết phục được các thành viên hội đồng đi theo hướng mà họ muốn, P5
thương sử dụng quyền phủ quyết ngầm để điều khiển chương trình nghị sự của HDBA và
ngăn cản ĐHĐ hành động trong một số trường hợp nhất định -> việc lạm dụng quyền phủ
quyết ngầm của P5 đáng khiến cho HDBA ngày càng thiếu dân chủ , minh bạch, hoạt động
kém hiệu quả.
- Việc đe dọa dùng quyền phủ quyết có ảnh hưởng vừa tiêu cực vừa tích cực đến hoạt động
của HDBA: Vd: Mỹ thường xuyên cảnh báo dùng quyền phủ quyết trong các vấn đề liên quan
đến Israel.
Kết luận: Cơ chế này nhằm giúp 5 thành viên thường trực HDBA thực hiện tốt những trách
nhiệm nặng lề của mình giải quyết các việc quốc tế. Nhưng giờ đây nó thành công cụ phục vụ
mục đích của các quốc gia thành viên Thường trực ( đặc biệt là Hoa kì). Các nghị quyết của
HDBA giờ đây không được các nước đánh giá cao, nếu như không muốn nói là xem thường,
nó được cho là những văn bản để đe dọa, khống chế, và khủng bố các nước khác không nằm
trong quĩ đạo ảnh hưởng của của các nước thường trực. Vì vậy, có một số những nghị quyết
dù thành văn bản nhưng đã không được các bên liên quan thi hành như nghị quyết về. Cơ chế
này dường như đã lỗi thời và làm HDBA mất đi giá trị của nó. ( khó mà cải tổ được vì các
nước thường trực phản đối)
Thông tin bên lề:
Page 84
Câu hỏi ôn tập
- Cở chế quyền phủ quyết:
+ Phủ quyết với vấn đề đăng kí thành viên : HDBA có quyền quyết đinh đối với 1 nước có
được gia nhập vào LHQ hay không thông qua việc đánh giá các khía cạnh liên quan tới
ANTG
+Phủ quyết đối với vấn đề bảo vệ các nước khỏi bị kết tội hoặc cấm vận: các nước thường
trực thường sử dụng veto đề bảo vệ nước có QHKT hoặc Ngoại giao với mình khỏi các lời
buộc tội hoặc cấm vận kinh tế.
+ Phủ quyết đối với các vấn đề ngăn cản nỗ lực gìn giữ hòa bình của LHQ.
+Phủ quyết kép.
+phủ quyết ngược: 7 phiếu chống của e10 tương đương 1 phiếu chống của p5.
70.
Quyền hạn của HĐBA trong trường hợp hoà bình và an ninh quốc tế bị
phá hoại (Chương VII). Phân tích ý nghĩa của Điều 39 HC LHQ.
Hội đồng bảo an là cơ quan duy nhất trong hệ thống các cơ quan của Liên hợp quốc có
thẩm quyền và nghĩa vụ phải hành động trong những trường hợp có sự đe dọa, phá hoại hoà
bình hoặc hành vi xâm lược.
Trích Hiến chương LHQ:
“Điều 39
Hội đồng Bảo an xác định sự tồn tại mọi sự đe doạ hòa bình, phá hoại hòa bình hoặc hành
vi xâm lược và đưa ra những kiến nghị hoặc quyết định các biện pháp nào nên áp dụng phù
hợp với các Điều 41 và 42 để duy trì hoặc khôi phục hòa bình và an ninh quốc tế.
Điều 41
Hội đồng Bảo an có thẩm quyền quyết định những biện pháp nào phải được áp dụng mà
không liên quan tới việc sử dụng vũ lực để thực hiện các nghị quyết của Hội đồng, và có thể
yêu cầu các thành viên của Liên Hiệp Quốc áp dụng những biện pháp ấy. Các biện pháp này
có thể là cắt đứt toàn bộ hay từng phần quan hệ kinh tế, đường sắt, đường biển, hàng không,
Page 85
Câu hỏi ôn tập
bưu chính, điện tín, vô tuyến điện và các phương tiện liên lạc khác, kể cả việc cắt đứt quan hệ
ngoại giao.
Điều 42
Nếu Hội đồng Bảo an nhận thấy những biện pháp nói ở Điều 41 là không thích hợp, hoặc
không còn thích hợp, thì Hội đồng Bảo an có thẩm quyền áp dụng mọi hành động của hải, lục,
không quân mà Hội đồng Bảo an xét thấy cần thiết cho việc duy trì hoặc khôi phục hòa bình
và an ninh quốc tế. Những hành động này có thể là những cuộc biểu dương lực lượng, phong
tỏa và những chiến dịch khác, do các lực lượng hải, lục, không quân của các Thành viên Liên
Hiệp Quốc thực hiện.”
*Ý nghĩa của Điều 39 Hiến chương LHQ:
Điều 39 Hiến chương Liên hợp quốc quy định Hội đồng bảo an có trách nhiệm xem xét,
xác định mọi tình hình xem liệu tình hình cụ thể nào đó có đe doạ hoà bình, phá hoại hoà bình
hoặc là hành vi xâm lược hay không. Sau đó, Hội đồng bảo an sẽ ra nghị quyết trước khi áp
dụng các biện pháp để duy trì hoà bình, khôi phục hoà bình và an ninh quốc tế.
Ví dụ: Tháng 8 năm 1990, Irắc xâm chiếm Cô Oét, sau khi xác định tình hình thực tế, Hội
đồng bảo an đã ra Nghị quyết 660 nêu rõ hành vi của Irắc là hành vi xâm lược và yêu cầu Irắc
phải rút quân khỏi Cô Oét.
Điều 40 Hiến chương Liên hợp quốc cho phép Hội đồng bảo an áp dụng các biện pháp
tạm thời nhằm ngăn chặn sự phát triển tiếp theo của tình hình. Những biện pháp tạm thời ấy
không được phương hại đến các quyền, lợi ích hoặc tình trạnh của các bên hữu quan. Đó là
các biện pháp ngừng bắn, đưa quân đội trở về vị trí xuất phát ban đầu, rút quan khỏi vùng
chiến đấu, thiết lập giới tuyến tạm thời, thiết lập các khu vực phi quân sự.
Điều 41 Hiến chương Liên hợp quốc quy định: “nếu tình hình tiếp tục phát triển xấu đi,
Hội đồng bảo an có quyền áp dụng các biện pháp phi vũ trang như cắt toàn bộ hay từng phần
quan hệ kinh tế, đường sắt, đường biển,
hàng không, bưu chính, điện tín và các phương tiện thông tin khác kể cả việc cắt đứt quan
hệ ngoại giao với những quốc gia đã thực hiện hành vi đe dọa, phá hoại hòa bình hoặc hành vi
xâm lược”.
Page 86