Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 139 trang )
Đặc tính chuyển động của khối nước trong thuỷ vực ảnh hưởng rất lớn đến sự
di động, hoạt động dinh dưỡng, phân bố của thuỷ sinh vật. Các dòng nước hải
dương tạo nên những điều kiện thuận lợi về nhiệt độ, thức ăn cho cá, ảnh
hưởng đến sản lượng các biển.
3. Ánh sáng
Nguồn ánh sáng chủ yếu trong các thuỷ vực là từ mặt trời và mặt trăng toả
xuống, ngoài ra còn có nguồn phát sáng từ thuỷ sinh vật. Phần lớn lượng ánh
sáng vào nước được các phân tử nước và các vật lơ lững trong nước hấp thụ.
Hệ số hấp thụ ánh sáng của nước tỷ lệ nghịch với độ trong của nước và khác
nhau đối với loại tia sáng khác nhau. Như vậy, các thuỷ vực nước đục, có lượng
chất cái (seston) lớn hấp thụ ánh sáng nhiều hơn các thuỷ vực nước trong. Các
tia sáng đi vào trong nước không đồng đều, phụ thuộc vào độ dài sóng và độ
trong của nước. Độ sâu nhất của các tia sáng đi vào nước khoảng 1.500 1.700m. Vùng sâu dưới 1.700m, có thể coi là vùng không có ánh sáng mặt trời.
Do các tia sáng xâm nhập vào nước khác nhau, nên có thể chia tầng nước từ
trên xuống dưới sâu thành các vùng ánh sáng khác nhau.
•
•
•
Vùng trên (vùng sáng từ 0 -200m) là vùng còn đủ các tia sáng tia sáng từ
đỏ tới tím, bảo đảm sự quang hợp cho thực vật phát triển.
Vùng giữa (vùng mắt sáng từ 200 - 1.500m) là vùng chỉ còn các tia sáng
có sóng ngắn và cực ngắn.
Vùng dưới ( vùng tối : sâu hơn 1.500m) là vùng không có ánh sáng.
Ánh sáng ảnh hưởng đến sự di động và phân bố của thuỷ sinh vật theo độ sâu,
đặc biệt là thực vật quang hợp. Sự phân bố của ánh sáng không đồng đều theo
độ sâu đã tạo nên các vùng thực vật phong phú ứng với các vùng sáng của
tầng nước. sự thay đổi độ chiếu sáng ngày và đêm có tác dụng tới hiện tượng
di động ngày và đêm của thuỷ sinh vật. Ánh sáng còn giúp thuỷ động vật định
hướng di động, gọi là tính quang hướng động, thúc đẩy các quá trình sinh hoá
trong đời sống cá thể, tạo vitamine, ảnh hưởng nhất định đến quá trình sinh
sản, lối sinh sản, chu kỳ sinh sản và biến đổi về hình thái, màu sắc, các cơ quan
cảm quang của động vật ở các vùng khác nhau.
4. Độ phóng xạ
Độ phóng xạ của nước trong thuỷ vực là do trong nước có chứa các chất phóng
xạ như Trontium - 90, Cezium - 173, Ytrium - 91, Cerium - 144... Lớp nước mặt
tích tụ chất ph óng xạ nhiều hơn lớp nước dưới sâu. Chất phóng xạ tích tụ vào
nước từ không khí, các vụ nổ hạt nhân dưới biển, từ các chất thải của tàu
nguyên tử hay các khu công nghiệp nguyên tử. Chất phóng xạ có tác dụng gây
hại cho thuỷ sinh vật, làm trứng và phôi phát triển không bình thường. Khi tich tụ
vào cơ thể sinh vật chất phóng xạ có tác hại lan truyền cho người và thuỷ sinh
vật khác khi sử dụng chúng.
5. Nhiệt độ
Nguồn nhiệt chủ yếu của nước trong các thuỷ vực là từ bức xạ mặt trời và các
tia sóng dài: hồng ngoại, đỏ, da cam. Chế độ nhiệt ở nước tương đối ổn định
hơn ở không khí. Do có độ toả nhiệt và thu nhiệt lớn, các lớp nước ở trên mặt
và dưới sâu điều hoà nhiệt độ lẫn nhau trong quá trình lạnh đi hay bốc h ơi, làm
cho khối nhiệt độ của cả khối nước ít biến đổi.
Chế độ nhiệt của nước trong thuỷ vực biến đổi theo ba nhân tố chủ yếu: vĩ độ,
mùa vụ và độ sâu. Sự biến đổi nầy làm thay đổi trọng lượng riêng của nước ở
các vùng khác nhau, của các mùa và độ sâu khác nhau. Nhất là giữa tầng mặt
và tầng đáy, đều tạo nên hiện tương phân tầng nhiệt độ nước, chu chuyển
nước theo mùa trong các thuỷ vực nội địa và các dòng nước thẳng đứng ở hải
dương.
Ảnh hưởng của nhiệt độ nước trong thuỷ vực đối với thuỷ sinh vật rất lớn, có
tính chất quyết định đối với đời sống thuỷ sinh vật. Trong đời sống cá thể nhiệt
độ ảnh hưởng đến tốc độ trao đổi chất, hô hấp, dinh dưỡng, nhịp độ sinh sản và
phát triển của thuỷ sinh vật. Nhiệt độ cũng là nhân tố quyết định ảnh hưởng tới
biến động số lượng của thuỷ sinh vật trong thuỷ vực. Cùng với nồng độ muối,
chế độ nhiệt trong thuỷ vực quyết định sự phân bố theo vĩ độ, theo thuỷ vực,
theo độ sâu, theo mùa.
6. Nồng độ muối
Nước là dung môi hoà tan tốt các chất muối. Khi chảy qua các lớp đất, nước đã
hoà tan một lượng muối của đất trước khi đổ vào các thuỷ vực. Nước ở các
thuỷ vực trong thiên nhiên có nồng độ muối hoà tan rất khác nhau về nồng độ
muối tổng số cũng như thành phần ion. Về mặt thuỷ sinh học đối với mỗi loại
nồng độ và thành phần muối hoà tan của nước có một khu hệ thuỷ sinh vật đặc
trưng tương ứng. Căn cứ vào đó, người ta chia nước thiên nhiên thành bốn loại
chính: nước ngọt, nước lợ, nước mặn và nước quá mặn. Do quan niệm về đặc
tính của mỗi loại nước còn khác nhau, do các dẫn liệu dùng làm căn cứ phân
chia chưa thống nhất, nên giới hạn phân chia các loại nước thiên nhiên còn
chưa thống nhất. Trước hết là giới hạn của nồng độ muối hoà tan tổng số theo
các tác giả sau đây:
Phân loại nước
Zernov(1934)
Constantinov(1967)
Nước ngọt
0.2 - 0.5%o
< 0.5%o
Nước lợ
0.5 - 1.6%o
0.5 -30.0%o
16.0 - 47.0%o
30.0 - 40.0%o
> 47%o
> 40%o
Nước mặn
Nước quá mặn
Nước ngọt có đặc tính là ít thành phần muối Clorite và ion Na, nhiều muối
sulfate, carbonate, ion Ca, Si, Mn, N, P và chất hữu cơ hoà tan. Thuỷ vực nước
ngọt có khu hệ thuỷ sinh vật đặc trưng, nhưng các vùng tương đối gần biển có
thể có một số thuỷ sinh vật nước lợ và nước mặn di nhập vào.
Nước lợ: Nồng độ muối của thủy vực rất bất ổn định, luôn luôn bị nước trong lục
địa chảy ra làm nhạt đi và nước từ ngoài hải dương tràn vào làm mặn lên.
Thành phần khu hệ thủy sinh vật vùng nước lợ rất phức tạp. Ngoài thành phần
loài nước lợ còn có các loài nước mặn và các loài từ vùng nước ngọt di nhập
vào theo biến đổi của nồng độ muối. Nước lợ còn được chia thành ba loại:
•
•
•
Nước lợ nhạt : 0.5 - 5%o
Nước lợ vừa : 5 -18%o
Nươc lợ mặn : 18 -30 %o
Nước mặn chứa tới 60 nguyên tố hóa học. Trong thành phần có nhiều Clorite và
Na, ít Carbonate, Ca các hợp chất N, P, Si và chất hữu cơ hòa tan. Hàm lượng
chất vẩn cũng ít hơn. Thành phần khu hệ thủy sinh vật nước mặn rất đặc trưng,
ít khi có những loài nước ngọt hoặc nước lợ di nhập vào.
Chất hòa tan trong nước thiên nhiên bao gồm nhiều thành phần khác nhau. Có
thể chia thành ba nhóm lớn: Chất vô cơ hòa tan, chất hữu cơ hòa tan và chất
khí hòa tan.
•
Chất vô cơ hòa tan trong nước tự nhiên gồm ba thành phần:
o Thành phần muối cơ bản là thành phần chủ yếu của chất vô cơ
hòa tan trong nước thiên nhiên, gồm có các muối Clorite, Sulfat
carbonat Hydrocarbonat, của Na, Ca, K, Mg. Thành phần nầy tồn
tại dưới dạng các ion chủ yếu Cl2 , SO4, HCO3, CO3, Na, K, Mg và
Ca.
o Các nguyên tố tạo sinh (Biogen) gồm các hợp chất vô cơ và hữu
cơ hòa tan của N, P và Si là chất cần thiết cho sự tạo thành cơ thể
sống. Thuộc vào nhóm nầy còn có thể kể một số muối khác như
Na, ca, K, Mg …gọi chung là các muối dinh dưỡng.. . N ở trong
nước dưới dạng các ion NH4, NO2 và NO3, hoặc ở dạng hữu cơ
hòa tan và không hòa tan trong nước. P cũng ở dạng vô cơ và hữu
cơ hòa tan hay không hòa tan trong nước. Dạng vô cơ trong nước
là H3PO4 và các dẫn xuất.
o Các nguyên tố vi lượng bao gồm các nguyên tố có hàm lượng rất
nhỏ, nhưng rất quan trọng đối với đời sống thủy sinh vật. Phổ biến
là : Fe, Ni, Pb, Cu, Mn, Co …
7. Chất khí hòa tan
Trong nước thiên nhiên có các chất khí hòa tan. Những chất khí thường gặp có
hàm lượng cao: O2, CO2, N2, CH4, S, H2S, NH3 …
Nguồn gốc của các chất khí :
•
•
•
Từ không khí đi vào nước: O2, CO2, N2.
Do quá trình sống của thủy sinh vật và các quá trình chuyển hóa vật chất
xảy ra trong thủy vực : CO2, CH4, H2S, NH3.
Do quá trình phân giải khí và chuyển hóa ở các lớp đất sâu dưới tác dụng
của nhiệt độ và áp lực cao: CO2, CO, HCl, H2S, NH3….
Đối với nước trên mặt, nguồn gốc của khí hòa tan trong nước do hai nguồn gốc
trên là chủ yếu. Đối với nước ngầm, khí hòa tan trong nước do nguồn gốc thứ
ba là chủ yếu.
•
•
Oxy (O2) :Oxy hòa tan trong thủy vực do từ không khí và từ hoạt động
quang hợp của thực vật ở tầng quang hợp. Lượng oxy nầy sẽ được tiêu
thụ trong quá trình hô hấp, trong các quá trình oxy hóa các chất trong thủy
vực. Oxy trong nước ở hàm lượng cao có thể thoát ra ngoài không khí.. Ở
nền đáy Oxy còn được chuyển hóa từ MnO khó hòa tan trong nước lắng
xuống đáy. Khi mất Oxy, chất nầy lại trở thành hợp chất Mn hòa tan, lấy
lại Oxy trong nước rồi lại lắng xuống đáy.
Carbonic (CO2): Khí Carbonic cũng có từ không khí, từ hoạt động hô hấp
của thủy sinh vật và từ các quá trình phân hủy chất hữu cơ vào nước.
CO2 hòa tan trong nước được tiêu thụ trong quá trình quang hợp, trong
quá trình chuyển hóa thành HCO3 và CO3 và có thể thoát ra ngoài nước.
Hàm lượng O2 và CO2 trong nước các thủy vực phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố.
Nhiệt độ nước và nồng độ muối càng cao, hàm lượng O2 và CO2 trong nước
càng giảm. Hàm lượng O2 và CO2 trong thủy vực còn biến đổi theo mùa, theo
ngày đêm, theo độ sâu theo hoạt động sống của thủy sinh vật và các quát trình
chuyển hóa vật chất hữu cơ trong thủy vực theo sự thay đổi đặc tính chuyển
động của khối nước.
•
•
Hydrosulfure (H2S): H2S được hình thành do hoạt động của vi khuẩn thối
rửa phân hủy chất hữu cơ và vi khuẩn lưu huỳnh khử sulfate trong nước.
Loại thứ nhất thường gặp ở nước ngọt, loại thứ hai thường gặp ở biển và
hải dương nơi có nhiều sulfate. Đây là loại khí độc gây tác hại cho thủy
sinh vật.
Methane (CH4): Hình thành do quá trình phân hủy celuloze ở đáy hồ, ao,
đầm lầy, rất ít khi gặp ở biển. CH4 cũng là khí độc đối với thủy sinh vật.
8. Độ pH và hiệu thế Oxy hóa khử
8.1. pH
Độ pH trong nước phụ thuộc vào nhiều nguyên nhân và được coi là căn cứ để
xác định hàm lượng nhiều thành phần khác. Độ pH của một thủy vực biến động
theo ngày và đêm, theo độ sâu và theo mùa. Độ pH thay đổi làm thay đổi cân
bằng hệ thống hóa học trong nước, qua đó làm ảnh hưởng gián tiếp đến đời
sống thủy sinh vật.
8.2. Hiệu thế Oxy hóa khử (Eh)
Hiệu thế Oxy hóa khử (Eh) thể hiện mối quan hệ giữa hàm lượng chất Oxy hóa
và chất khử để thực hiện quá trình Oxy hóa khử trong nước ảnh hưởng đến đời
sống thủy sinh vật, nhất là vi sinh vật.
9. Chất hữu cơ
Trong thành phần nước tự nhiên, ngoài lượng chất hữu cơ trong sinh vật , còn
có các thành phần chất hữu cơ ở các dạng khác ngoài sinh vật : chất hữu cơ
hòa tan, chất vẩn và chất keo.
Thành phần chất hữu cơ nầy do hai nguồn:
•
•
Nguồn ngoại lai: gồm các chất mùn, bã, các chất thải sinh hoạt, công
nghiệp từ ngoài trôi vào thủy vực.
Nguồn nội tại : do các sinh vật trong thủy vực chết đi phân hủy thành.
Chất keo: một tập hợp phân tử các chất hữu cơ và vô cơ kết lại ở trạng thái keo
loại, lơ lững trong nước.
Chất vẩn : Một phức hợp gồm một giá thể hữu cơ, trên đó có nhiều thành phần
hữu cơ, vô cơ và cả sinh vật (vi khuẩn, tảo…)
Chất hữu cơ hòa tan ở trạng thái các acide amine hòa tan trong nước. Lượng
chất hữu cơ trong nước được xác định một cách gián tiếp bằng đơn vị mgO2/l.
Chất hữu cơ trong thủy vực là nguồn thức ăn cho thủy sinh vật, phần còn lại
lắng đọng xuống nền đáy tạo thành chất bùn đáy thủy vực.
10. Nền đáy thủy vực
Nền đáy thủy vực là điều kiện tồn tại và phát triển của khu hệ sinh vật đáy, đồng
thời là nơi ở, nơi ăn trong từng giai đoạn của nhiều sinh vật trong tầng nước.
Đặc tính của nền đáy phụ thuộc vào hai yếu tố: thành phần cơ học của nền đáy
và chất lắng đọng.
Thành phần cơ học của nền đáy do tính chất địa chất, thổ nhưỡng của nền đất
quyết định . Căn cứ vào tỷ lệ các hạt nhỏ có kích thước nhỏ hơn 0,01 mm cấu
thành nền đáy.
Phân chia
Tỉ lệ hạt nhỏ
Nền đáy đá
Không có hạt nhỏ
Nền đáy cát
< 5%
Nền đáy cát bùn
5 -10%
Nền đáy bùn cát
10 -30%
Nền đáy bùn
30 -50%
Nền đáy bùn nhão
> 50%
Chất lắng đọng thủy vực là nguồn vật chất hữu cơ tích tụ ở đáy thủy vực, là một
khâu trong chu trình vật chất, quyết định độ dinh dưỡng của thủy vực. Trong
từng thời gian, hàng mùa hay hàng năm, các vật chất hữu cơ lắng đọng sẽ tạo
thành từng tầng theo chiều thẳng đứng của nền đáy, phân biệt rõ rệt do thành
phần và số lượng khác nhau của lớp chất lắng đọng ứng với từng thời gian gọi
là vi tầng.
Chất lắng đọng hải dương do các vật chất từ lục địa đổ ra chủ yếu ở ven bờ và
do xác sinh vật hải dương. Trong nền đáy hải dương có thể phân thành mấy
loại chất lắng đọng sau:
•
•
•
•
Bùn Globigerina
Bùn thân mềm Pteropoda
Bùn tảo khuê và
Bùn đất sét đỏ
Chất lắng đọng đáy hồ có hai loại:
•
•
Bùn mùn: do xác thực vật từ ngoài vào và
Bùn thối do xác sinh vật trong hồ thối rửa và lắng xuống. Trong đó có các
dạng bùn tảo, bùn thực vật lớn và bùn cặn đá vôi. Bùn đá vôi ở đáy hồ ít
dinh dưỡng, nghèo chất hữu cơ, thưôøng gặp ở hồ nghèo dinh dưỡng.
Chương 3: Vấn Đề Ô Nhiễm Và Phòng Chống Ô Nhiễm
Trong Môi Trường Nước
Sự ô nhiễm các nguồn nước trên lục địa hiện nay là một trong những vấn đề ô
nhiễm trầm trọng nhất, đặc biệt là đối với các nước công nghiệp hóa. Ở Mỹ
người ta ước tính rằng 90% lượng nước sông được xem là phương tiện vận tải
các chất thải ra biển. Chỉ việc chống ô nhiễm phosphat cho vùng Ngũ hồ hàng
năm cũng đã tốn hết 500 triệu đô la. Ở Liên xô cũ, hơn 400.000km sông ngòi bị
ô nhiễm “mãn tính”. Ở Pháp, nơi các vấn đề về môi trường đã được quan tâm
tương đối sớm và nhà nước đã đầu tư nhiều cho việc phòng chống ô nhiễm ở
các sông ngòi, đặc biệt là những sông lớn như sông Sen, sông Ranh, sông Rôn
… nhưng cũng vẫn luôn ở trạng thái ô nhiễm đáng lo ngại.
Nguyên nhân và tác hại của nước bị ô nhiễm
1.1 Khái niệm về ô nhiễm môi trường nước
Thủy vực được coi là nhiễm bẩn khi thành phần hay trạng thái nước trong thủy
vực bị biến đổi do tác dụng của các hoạt động của con người tới mức hạn chế
việc sử dụng các nhu cầu khác nhau hoặc không sử dụng được nữa. Nguồn
gây ô nhiễm có thể là chất hữu cơ, chất độc hóa học, chất phóng xạ … Có thể
phân biệt hai loại ô nhiễm:
•
•
Ô nhiễm sơ cấp là hiện tượng nhiễm bẩn trực tiếp do các chất thải từ
ngoài đưa vào.
Ô nhiễm thứ cấp là là hiện tượng nhiễm bẩn gián tiếp từ nơi nầy sang nơi
khác trong một thủy vực hay từ thủy vực nầy sang thủy vực khác (do các
sinh vật chứa chất nhiễm độ, chất phóng xạ…) từ các vùng nhiễm bẩn lọt
vào gây nên sự ô nhiễm.
1.2 Nguyên nhân
•
•
•
•
•
Do nước thải sinh hoạt từ các khu tập trung dân cư: Nước thải loại nầy
chứa nhiều chất hữu cơ, phân rác, vi khuẩn gây bệnh, trứng giun ,sán và
các sinh vật gây hại khác. Loại nước thải nầy phổ biến nhất.
Do nước thải công nghiệp đổ vào. Loại nước thải nầy phức tạp về thành
phần. Tùy theo loại công nghiệp mà nước thải có thể chứa nhiều chất hữu
cơ chưa phân hủy (nhà máy thực phẩm), nhiều sợi celluloze, sude (nhà
máy giấy), sản phẩm dầu hỏa, muối độc vô cơ và hữu cơ( nhuộm, thuộc
da, hóa chất, luyện kim, than đá). Đây là loại nước thải gây hại lớn.
Do hóa nông dược sử dụng trong nông nghiệp.
Do chất phóng xạ từ không khí, từ chất thải khu công nghiệp nguyên tử,
tàu nguyên tử và thử vũ khí hạt nhân ở biển.
Do dòng nước nóng thải ra từ nhà máy điện.
1.3. Tác hại
•
•
•
Tác hại về cơ học: do lượng phân rác, chất vẩn, chất sợi có rất nhiều
trong nước thải, phủ kín cả nền đáy thủy vực làm cho thủy sinh vật nền
đáy không phát triển được. Ngoài tác hại cơ học, còn có tác hại do chế độ
khí hòa tan thay đổi và tác hại gây độc do chất hữu cơ phân hủy gây nên.
Gây bệnh: nước thải từ khu dân cư, nhà máy chế biến thực phẩm, bia
chứa nhiều chất hữu cơ. Đó là môi trường tốt cho các loại vi khuẩn gây
bệnh, các loại trứng giun sán tồn tại và phát triển. thường là vi khuẩn gây
bệnh đường ruột. Nước thải từ bệnh viện, nếu không được xử lý thích
hợp có thể lan truyền các mầm bệnh nguy hiểm khác nữa.
Gây độc: chủ yếu do chất thải công nghiệp gây nên. Trong nước thải loại
nầy có hai dạng chính: là hữu cơ và vô cơ. Chất hữu cơ như phenol, hắc
ín, aldehyde, sản phẩm dầu hỏa.. rất khó tan, lâu vô cơ hóa nên lan đi rất
xa. Chất vô cơ như muối Cu, As, Ni, Pb, Zn, Fe, và các loại acide vô cơ…
thường gây độc ở hàm lượng rất nhỏ.
•
Gốc Muối
Nồng độ gây chết (ppm)
Giáp xác
Cá
As
0,25 - 2,5
10 -20
Pb
> 0,5
10 -15