Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 139 trang )
Trong thiên nhiên cũng thường có hiện tượng thủy sinh vật biển di nhập vào
nước ngọt hay từ nước ngọt ra biển một thời gian. Từ những hiện tượng trên có
thể đặt ra hai vấn đề:
• Giữa cơ thể thủy sinh vật và môi trường nước có quan hệ nhất định về
thành phần và nồng độ muối hay có thể gọi là quan hệ thẩm thấu, đó là
điều kiện để thủy sinh vật sống được bình thường.
• Thủy sinh vật có khả năng điều hòa quan hệ thẩm thấu nầy chống lại
những biến đổi nồng độ muối và thành phần muối của cơ thể, do biến đổi
nồng độ muối và thành phần muối của môi trường nước bên ngoài.
* Quan hệ thẩm thấu giữa thủy sinh vật với môi trường nước
Để chỉ quan hệ thẩm thấu, so sánh giữa cơ thể thủy sinh vật với môi trường
ngoài, người ta dùng các khái niệm:
• Quan hệ thẩm thấu tương đương (hay đẳng trương : Isotonic): khi dịch cơ
thể và môi trường nước bên ngoài có áp suất thẩm thấu bằng nhau.
• Quan hệ thẩm thấu cao hơn (hay ưu trương : Hypertonic) :khi dịch cơ thể
có áp suất thẩm thấu cao hơn.
• Quan hệ thẩm thấu thấp hơn (hay nhược trương: Hypotonic) :khi dịch cơ
thể có áp suất thẩm thấu thấp hơn.
Căn cứ vào quan hệ biến đổi giữa áp suất thẩm thấu của dịch cơ thể và của môi
trường, có thể chia thủy sinh vật thành các nhóm sau:
• Biến thẩm thấu Poikiloosmotic: Dịch cơ thể có quan hệ thẩm thấu tương
đương và biến đổi theo môi trường ngoài, chúng không có khả năng điều
hòa thẩm thấu. Đa số động vật không xương sống biển thuộc vào nhóm
nầy. Trong động vật nước ngọt có nhóm hải miên, ruột khoang, giun ít tơ
, đỉa, thân mềm, giáp xác chân mang là các động vật biến thẩm thấu.
• Đồng thẩm thấu Homoiosmotic: Khi dịch cơ thể có áp suất thẩm thấu cao
hơn hay thấp hơn hay tương đối độc lập với môi trường ngoài, thủy sinh
vật có khả năng điều hòa áp suất thẩm thấu. Trong nhóm nầy có động
vật có xương sống nước ngọt, côn trùng và ấu trùng côn trùng, cá, giáp
xác cao ở biển và nước ngọt.
• Giả đồng thẩm thấu Pseudohomoiosmotic: Động vật biến thẩm thấu,
nhưng do ở xa bờ hay ở đáy biển sâu nồng độ muối hầu như không thay
đổi, nên áp suất thẩm thấu của của dịch cơ thể cũng không thay đổi, tuy
chúng không có khả năng điều hòa thẩm thấu.
* Hoạt động điều hòa muối ở thủy sinh vật
(Hình37)
Điều hòa muối là quá trình hoạt động của cơ thể đảm bảo cho dịch cơ thể giữ
nguyên được nồng độ và thành phần muối nhất định của mình chống lại những
biến đổi của môi trường ngoài. Do thành phần muối trong cơ thể thủy sinh vật,
không những chỉ sai khác về mặt nồng độ chung mà còn sai khác về cả thành
phần ion nữa. Vì vậy, quá trình điều hòa phải đảm bảo cả hai mặt: điều hòa
nồng độ muối chung (hay điều hòa thẩm thấu) và điều hòa thành phần ion (hay
điều hòa ion).
Điều hòa muối ở thủy sinh vật có thể tiến hành theo hai hướng:
• Điều hòa tăng: nhằm chống hiện tượng giảm áp suất thẩm thấu của cơ
thể.
• Điều hòa giảm: chống hiện tượng tăng áp suất thẩm thấu của cơ thể. Hai
quá trình nầy tiến hành ở bọn đồng thẩm thấu. Tùy theo quan hệ thẩm
thấu đối với môi trường ngoài của từng loại và biến đổi của môi trường
ngoài. Trường hợp thứ ba là thủy sinh vật không tiến hành điều hòa thẩm
thấu, luôn có quan hệ thẩm thấu tương đương với môi trường ngoài.
* Cơ chế điều hòa muối ở thủy sinh vật
• Điều hòa thụ động: điều hòa thụ động nhờ hiện tượng khuyếch tán các
chất từ môi trường có nồng độ muối cao sang môi trường có nồng độ
muối thấp qua màng tế bào cơ thể. Trường hợp phải chống lại sự xâm
nhập của muối vào cơ thể hay thoát muối ra khỏi cơ thể là nhờ vào tính ít
thấm qua của các tế bào thành cơ thể (đặc biệt ở thực vật có các tế bào
có màng chắc). Nhờ vậy các động vật nước ngọt khi có áp suất thẩm
thấu của dịch.mô cao hơn môi trường ngoài từ 0,5 - 1atm nhưng nước
vẫn không vào các tế bào được do tính chất của màng tế bào. Khả năng
thấm qua màng tế bào của các chất hòa tan phụ thuộc vào độ lớn và độ
phân cực của các phân tử (kích thước và độ phân cực càng thấp thì thì
càng dễ lọt qua). Các ion muối N,.P,Si và các muối khác xâm nhập vào tế
bào tảo theo cách thẩm thấu nầy.
• Điều hòa chủ động: thực hiện nhờ các tế bào đặc biệt ở bề mặt cơ thể
hay trên các cơ quan đặc biệt không cần tới lực khuyếch tán. Có thể coi
quá trình điều hòa chủ động như một quá trình hấp thu và bài tiết có chọn
lọc các ion cần thiết hay không cần thiết cho cơ thể, đảm bảo cho dịch cơ
thể có thành phần hóa học nhất định hay đặc trưng cho từng loài.
• Biến đổi của khả năng điều hòa muối ở thủy sinh vật: khả năng thích ứng
với nồng độ muối phụ thuộc vào khả năng điều hòa muối ở thủy sinh vật.
Khả năng nầy tăng lên khi con vật được huấn luyện dần với sự thay đổi
nồng độ muối. Nồng độ muối của dịch cơ thể thủy sinh vật bao giờ cũng
trong khoảng 5 -8%o, và đây là ngưỡng sinh lý chung ở thủy sinh vật,
cần thiết cho các quá trình sống trong cơ thể tiến hành được. Khi nồng
độ muối môi trường ngoài vượt quá khả năng điều hòa nước thì sinh vật
chuyển sang sống tiềm sinh sau khi thải ra môi trường một lượng nước
khá lớn.
(hình38)
Ý nghĩa sinh học của thành phần ion trong môi trường nước:
• Các ion có tính chất đối kháng về sinh lý, khử độc lẫn nhau: Nếu là hai ion
có tác dụng lẫn nhau, như Ca (giảm độ thấm màng tế bào) và Na (tăng
độ thấm màng tế bào) thì ta có tính đối kháng phân cực. Nếu là hai ion có
tác dụng giống nhau nhưng khử nhau khi hòa lẫn (Ca và K) thì ta có tính
đối kháng không phân cực.
• Đặc tính sinh lý của các muối là do các cation quyết định.
• Muốn cho cho dung dịch khỏi độc, đảm bảo đời sống bình thường của
thủy sinh vật thì trong dung dịch cần có một tỷ lệ nhất định giữa ion hóa
trị 1 và hóa trị 2, hệ số nầy gọi là hệ số Lôb và đặc trưng cho mỗi loài.
Lôb cũng đã chứng minh rằng khi độ muối chung giảm, để đảm bảo hoạt động
sinh lý bình thường của thủy sinh vật thì hệ số nầy giảm theo hướng tăng thêm
ion hóa trị 2 (ca, Mg), giảm bớt ion hóa trị 1(Na, K).
Các thí nghiệm của Ostwald cho thấy dung dịch muối càng gần với nước biển
về thành phần muối thì sinh vật càng phát triển tốt. Ví dụ: Chất lượng dung dịch
muối tăng dần theo thành phần muối phức tạp như sau:
NaCl < NaCl + KCl < NaCl + KCl + CaCl2 ….
Do đó các ion không chỉ quan trọng về mặt hóa trị mà còn có đặc tính riêng của
từng ion. Ion cùng dấu, cùng hóa trị nhưng có tác dụng sinh lý khác nhau như
Na, K, Ca, và Mg.
Các thí nghiệm của Ostwald cũng chứng tỏ về mặt sinh lý nguồn gốc biển của
thủy sinh vật. Thành phần muối gần với thành phần muối nước biển thuận lợi
đối với sinh lý bình thường của thủy sinh vật, chứng tỏ môi trường sống nguyên
thủy của chúng phải là môi trường biển.
Hiện tượng tích trữ muối hòa tan ở thủy sinh vật: thấy nhiều ở sinh vật biển,
lượng muối nầy rất lớn như tảo khuê (Bacillariophyta) có 80%Si, Mollusca có
50% Ca, Laminaria có hàm lượng Iod gấp 30.000 lần, Hải tiêu có hàm lượng
Vanadium gấp 280.000 lần hàm lượng trong nước biển. Do đó thủy sinh vật giữ
vai trò quan trọng trong chu trình muối khoáng ở thủy vực. Ngoài hoạt động điều
hòa muối, chúng còn ảnh hưởng tới khối lượng muối trong thủy vực bằng khả
năng tích tụ.
2. Trao đổi nước giữa cơ thể sinh vật với môi trường ngoài.
Trao đổi nước giữa thủy sinh vật với môi trường ngoài được tiến hành trong các
hoạt động sống (tiêu hóa, bài tiết, hô hấp, trao đổi nước và muối). Môi trường
nước là điều kiện tồn tại của thủy sinh vật, do đó để bảo vệ khả năng sống khi bị
tách rời khỏi môi trường nước, thủy sinh vật có những thích ứng về mặt cấu tạo
cũng như về sinh lý, nhằm bảo đảm giữ cho cơ thể một lượng nước cần thiết để
duy trì đời sống. Có thể có nhiều cách : lẫn vào nơi kín để khỏi mất nước, có
cấu tạo bảo vệ lượng nước cơ thể, chuyển sang sống tiềm sinh trong điều kiện
khô cạn.
- Lẫn vào nơi kín đáo để bảo vệ lượng nước trong cơ thể
Khi thủy vực bị khô cạn, trước hết thủy sinh vật chạy khỏi nơi bị khô cạn.
Trường hợp không ra khỏi nơi đó, các động vật có xu hướng lẫn vào nơi kín
(gầm đá tầng, gần các vật dưới nước), tự vùi xuống cát, xuống lớp bùn đáy để
giảm bốc hơi nước cơ thể. Các lối lẫn trốn trên thấy ở các sinh vật vùng triều ở
biển. Lối chung xuống bùn phổ biến ở động vật nước ngọt. Các động vật có khả
năng nầy rất nhiều: côn trùng cánh nửa (Hemiptera) ấu trùng muỗi, chuồn
chuồn, đỉa, giun ít tơ, ốc Planorbidae, Bithymidae, Viviparidae, Pilidae,
Limnaeidae, trai Sphaeridae, giáp xác sống nổi Diacyclops, Megacyclops, một
số loài cá. Các động vật nầy có thể xuống sâu đến 1m và có thể sống kéo dài
như vậy hàng tháng, có khi hàng năm.
- Cấu tạo bảo vệ lượng nước trong cơ thể:
Cấu tạo bảo vệ thường thấy là vỏ cơ thể dày như lớp biểu bì ở Chân khớp và
vỏ đá vôi ở thân mềm, nắp miệng ở ốc. Một loại cấu tạo bảo vệ đặc sắc khác là
bào xác ở động vật nguyên sinh. trứng nghỉ ở giáp xác râu ngành. Luân trùng
có thể chịu điều kiện khô cạn tới hàng năm. một số sinh vật chống khô cạn bằng
cách thu nhỏ thể tích, tiết màng bọc rồi chuyển sang sống tiềm sinh. Khả năng
này thấy ở động vật nguyên sinh, luân trùng, bò chậm (Tardigrada), giun tròn,
ấu trùng côn trùng. Khi gặp nước, vật sống tiềm sinh lại hồi sinh lại dần dần,
mau hay chậm tuỳ theo thời gian sống tiềm sinh mau hay lâu.
Trao đổi khí ở thuỷ sinh vật
Trao đổi khí được thực hiện ở thuỷ sinh vật trong quá trình quang hợp hô hấp
và quá trình nầy diễn ra trong môi trường nước. Vì vậy việc trao đổi khí một mặt
phụ thuộc vào đặc điểm thich ứngcủa thuỷ sinh vật, mặt khác phụ thuộc phụ
thuộc vào chế độ khí trong môi trường nước. Nhiều thuỷ sinh vật chuyển sang
sống tiềm sinh trong điều kiện không có Oxy, khi có đủ Oxy chúng hoạt động hô
hấp trở lại.
1. Tính thích ứng của thuỷ sinh vật với điều kiện hô hấp trong nước
Hô hấp của thuỷ sinh vật trong nước là nhờ qui luật khuyếch tán của Oxy và
CO2 qua thành cơ thể và trong môi trường nước. Hệ số khuyếch tán của Oxy
trong nước thấp hơn 320 lần so với trong không khí. Do đó thuỷ sinh vật lấy Oxy
trong nước khó hơn sinh vật ở cạn lấy Oxy trong không khí. Ngược lại việc việc
thải CO2 trong nước lại dễ hơn nhiều so với ở cạn. Một mặt do hệ số khuyếch
tán trong nước trong nước của CO2 khá cao, gấp 25 lần hơn hệ số khuyếch tán
Oxy. Mặt khác nhờ trong nước có muối Carbonate trung hoà nhanh chóng CO2
thải ra theo sơ đồ
CO2
H2CO3
Ca(HCO3)2
CaCO3 hoà tan
CO3Ca lắng đọng
Trao đổi khí của thuỷ sinh vật phụ thuộc rất chặt chẽ với các điều kiện của môi
trường nước (hàm lượng khí trong nước, nhiệt độ, độ mặn, chuyển động của
nước) và với đặc điểm cấu tạo thích ứng cơ thể của thuỷ sinh vật.
Cũng do đặc điểm của môi trường nước về mặt trao đổi khí như vậy, nên các
thuỷ sinh vật thứ sinh trong khi giữ nguyên lối hấp thụ Oxy của sinh vật ở cạn
(phổi), lại có xu hướng chuyển sang lối thải CO2 của sinh vật ở nước (qua bề
mặt cơ thể).
* Thích ứng về mặt cấu tạo cơ thể ở thuỷ sinh vật
Phát triển theo hai hướng :mở rộng diện tích cơ thể để tăng cường diện tiếp xúc
và làm mỏng thành cơ thể để để khí dễ khuyếch tán. Các thuỷ sinh vật không có
cơ quan hô hấp chuyên hoá đều có kích thước nhỏ, do đó có diện tích tương
đối lớn: động vật nguyên sinh, luân trùng, giáp xác nhỏ. Các cơ quan hô hấp
chuyên hoá của thuỷ sinh vật (mang, khí quản) phân nhánh hoặc có số lượng
nhiều cũng nhằm tăng cường diện tiếp xúc của cơ thể với môi trường nước,
tăng cường trao đổi khí.
Ngoài các cơ quan hô hấp nhằm tăng cường diện tiếp xúc của cơ thể với môi
trường nước, ở nhiều thuỷ sinh vật còn có các cơ quan thích ứng đặc biệt khác
như ấu trùng ruồi Eristalis, muỗi Culex, bã trầu (Nepa) có những ống thở dài
nên có thể thò ra ngoài mặt bùn, hay thò lên mặt nước để lấy Oxy. Nhện nước
Argyroneta có chuông khí bằng tơ để chứa không khí dự trữ khi sống chìm dưới
nước.
* Tạo điều kiện trao đổi khí tốt của môi trường nước
Đó là những cách được thuỷ sinh vật thực hiện như di chuyển tới nơi có nhiều
Oxy, tạo dòng nước chảy qua cơ thể mang Oxy tới và phân tán khí Carbonic đi,
dựa vào hoạt động tiết Oxy của thực vật.
* Phối hợp giữa lối hô hấp ở cạn và ở nước
Đó là đặc điểm thích ứng thấy ở nhiều thực vật và động vật, đặc biệt ở các động
vật sống ở vùng ven bờ và sống trôi trên mặt nước như sen, sứa ống, các loài
ốc có phổi, ốc có mang, cua dừa, cáy, còng, cá, ếch, nhái.
2. Cường độ trao đổi khí ở thuỷ sinh vật
Cường độ trao đổi khí được thể hiện bằng lượng Oxy sinh vật sử dụng trong
một thời gian, trên một đơn vị trọng lượng cơ thể, tính theo đơn vị
mgOxy/1gram /1giờ.
Ta biết rằng, khi đốt cháy hết cùng một lượng Protid. Glucid, Lipid, cần có
những lượng Oxy khác nhau và lượng năng lượng toả ra cũng sẽ khác nhau
theo từng loại vật chất, nhưng đồng thời tỷ số giữa lượng Oxy sử dụng và năng
lượng toả ra đều xấp xĩ như nhau.
Năng lượng toả ra khi đốt 1gr
(K)
Oxy cần để đốt 1gr
(O)
K/O
Protid
5,78
1,75
3,30
Lipid
9,46
2,88
3,28
Glucid
4,18
1,18
3,53
Vật chất
Hệ số K/O (lượng Calo toả ra khi đốt 1gr vật chất và lượng Oxy cần để đốt) gọi
là hệ số OxyCalo. Các nghiên cứu của Ivơlev(1939) cho thầy, hệ số nầy ở thuỷ
sinh vật trung bình 3,38cal/mgO2. Hệ số nầy không phụ thuộc vào điều kiện môi
trường sống của thuỷ sinh vật. Hệ số CO2/O2 gọi là hệ số hô hấp. Hệ số nầy
trong trường hợp hô hấp hiếu khí thường nhỏ hơn 1 (O2 > CO2). Nhưng trong