1. Trang chủ >
  2. Nông - Lâm - Ngư >
  3. Ngư nghiệp >

Đặc điểm nguồn lợi thuỷ sản vùng đồng bằng sông Cửu Long

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 139 trang )






Nhóm cá tự nhiên sống trong sông (cá trắng) bao gồm các loài cá có kích

thước lớn và có giá trị kinh tế cao như cá hô, cóc, bông lau, duồng … Bên

cạnh đó có loài cá kích thước thân thể nhỏ nhưng quần đàn lớn và có giá

trị kinh tế như cá linh, thiểu, cơm…



Di cư của cá ở hạ lưu sông Cửu Long theo các dạng sau













Di cư sinh sản : Gồm có hai nhóm, nhóm di cư ngược dòng để đẻ ở các

vùng trung và thượng lưu sông Mékông như cá tra, duồng, ba sa, hô, tra

dầu, hú…. Nhóm di cư từ sông vào vùng trũng ngập nước vào mùa mưa

để đẻ như cá lăng, leo, mè lúi, he …

Di cư vỗ béo : Vào đầu mùa lũ, cá từ sông di cư vào các vùng đồng ruộng

trũng ngập nước để kiếm ăn. Đến cuối mùa lũ , nước rút, cá lại theo dòng

nước di cư ra sông để tìm mồi. Ngoài ra, còn có một số loài cá nước mặn,

lợ di cư vào sông để tìm mồi trong mùa khô.

Di cư thụ động : Dạng di cư nầy thường gặp ở cá bột của một số loài cá

như cá tra, ba sa, vồ đém, hú, bông lau … Những loài cá nầy đẻ ở vùng

trung và thượng lưu sông Mékông. Vào đầu mùa lũ, cá bột trôi theo dòng

nước chảy về phía hạ lưu sông và các vùng ngập nước ven sông.



- Vùng sinh thái trũng phèn

Vùng Đồng Tháp Mười, Tứ Giác Long Xuyên nhận nước từ hai nguồn chính là

nước từ sông Cửu Long chảy qua hệ thống kênh rạch và nguồn nước mưa tại

chỗ. Vào mùa lũ ( từ tháng 8 -11), Đồng Tháp Mười và Tứ Giác Long Xuyên là

vùng sinh trưởng, đẻ trứng của nhiều loài cá di cư từ sông vào. Khi nước rút,

hầu hết các loài cá nầy lần lượt di cư ra sông, chỉ có các loài cá đen chịu được

khô hạn và phèn, còn lưu lại trong các đìa, bàu láng trũng nước cạn và bị nhiễm

phèn ở các mức độ khác nhau. Đây là những vùng lưu giữ nguồn gen của tập

đoàn cá đen nổi tiếng như cá lóc, rô, trê, sặc, lươn, trạch … và nhóm cá kích

thước nhỏ điển hình là cá trâm - sinh vật chỉ thị cho thuỷ vực phèn nặng, có thể

chịu được môi trường nước pH từ 2 -3.

- Vùng sinh thái cửa sông ven biển

Các cửa sông ven biển vùng đồng bằng sông Cửu Long thuộc hệ thống sông

Mékông và một số cửa sông khác có nguồn gốc tại chỗ. Phần lớn các cửa sông

chảy ra biển Đông và chịu ảnh hưởng thuỷ triều biển Đông. Một số cửa sông đổ

ra khu vực biển Tây và chịu ảnh hưởng thuỷ triều biển Tây. Một số cừa sông

thuộc khu vực mũi Cà Mau thuộc vùng chuyển giữa biển Đông và biển Tây.

Các cửa sông chịu ảnh hưởng thuỷ triều biển Đông thuộc hệ thống sông Cửu

Long có lưu lượng nước đổ ra biển hằng năm rất lớn, tạo nên một khu vực cửa

sông rộng lớn có sự hoà trộn nước sông và nước biển. Nơi đây sự biến động về

môi trường và độ mặn xảy ra rất lớn về mùa khô và mùa mưa.











Cửa sông Mỹ Thanh không thuộc hệ thống sông Cửu Long nhưng do vị trí

gần cửa sông Trần Đề và Bassac của hệ thống sông Cửu Long nên chịu

ảnh hưởng về môi trường và chế độ nước giống như các cửa sông thuộc

hệ thống sông Cửu Long.

Cửa sông Gành Hào không thuộc hệ thống sông Cửu Long và ở xa vị trí

các cửa sông thuộc hệ thống sông Cửu Long nên chế độ nước và môi

trường không giống như các các sông thuộc hệ thống đó.



Cửa sông Cái Lớn chịu ảnh hưởng thuỷ triều biển Tây.

Các cửa sông Ông Đốc, Bảy Hạp chịu ảnh hưởng của cả hai vùng biển Đông và

biển Tây.

Do đặc điểm sinh thái vùng cửa sông cùng với mối quan hệ về độ mặn và đặc

điểm sinh học của tôm cá, nên sự phân bố của chúng trong khu vực có thể chia

tành bốn nhóm sinh thái cá.

Nhóm I - Nhóm cá biển

Nhóm cá nầy đời sống phần lớn ở vùng nước có độ mặn cao. Chúng có quan

hệ với vùng cửa sông thông qua chuổi thức ăn và mùn bã hữu cơ từ cửa sông

đưa ra biển. Đây là các loài thích nghi rộng muối và hẹp muối. Có thể gặp cá

thích nghi với độ muối thấp 5%o , nhưng đa số gặp cá thích nghi với nồng độ

muối từ 18 - 25%o . Nhóm cá nầy gồm các loài cá sống khơi, điển hình như các

họ Trigonidae, Scombridae, Clupeidae, Engraulidae… Nhóm cá biển thường

gặp ở phần cuối các cửa sông, nơi nước có nồng độ muối cao và ít biến động,

nhất là vào mùa khô khi lượng nước sông giảm.

Nhóm II - Nhóm cá nước lợ cửa sông

Nhóm cá nầy sống chủ yếu ở vùng nước lợ cửa sông, có nồng độ muối biến

động từ 0,4 - 25%o, thích nghi với sự biến động mạnh của các yếu tố môi

trường và ít di cư. Thức ăn của chúng là mùn bã hữu cơ và thực vật. Cá nước

lợ cửa sông thuộc nhiều nhóm khác nhau thuộc họ Clupeidae, Engraulidae,

Harpadonthidae, Bregmacerotidae, Belonidae, Ariidae, Polynemidae,

Apogonidae, Carangidae, Sciaenidae, Lutjanidae, Sparridae… Phần lớn các loài

cá nầy có kích thước nhỏ, sống đáy. Nhiều loài sống ổn định trong vùng, nhưng

cũng có nhiều loài di cư giữa sông và biển. Một số loài ở vùng cửa sông là nơi

bắt buộc trong một giai đoạn của chu trình sống, khi sinh sản phải di cư đến

vùng sinh thái khác. Nhóm các nước lợ cửa sông và nhóm cá biển di nhập vào

là cơ cấu chủ yếu của nghề khai thác cá cửa sông và vùng nước nông ven biển.

Nhóm III - Nhóm cá di cư giữa nước mặn và nước lợ theo mùa

Đây là nhóm cá có nguồn gốc từ biển thường di cư vào vùng nước lợ dể sinh

sản và kiếm ăn theo các mùa trong năm. Có một số loài di cư qua vùng nước lợ

cửa sông, đến vùng nước ngọt trong sông theo mùa. Các loài cá thường gặp

thuộc họ Clupeidae, Engraulidae, Plotosidae, Leiognathidae, Polynemidae,

Sciaenidae, Cynoglossidae, Soleidae, Ariidae…

Nhóm IV - Nhóm cá nước ngọt



Gồm các loài cá phần lớn đời sống ở vùng nước ngọt, nồng độ muối dưới 4%o.

Một số loài có thể xuống vùng cửa sông, nước có nồng độ muối 10%o để kiếm

ăn. Chúng thường được gặp ở cửa sông vào mùa nước lũ và nước ròng. Nhóm

nầy có những loài thuộc họ Anabantidae, Bagridae, Pangasidae …



Đánh giá nguồn lợi thủy sản

Mục tiêu của việc đánh giá trữ lượng cá

Khái niệm:





Trữ lượng là một nhóm động vật cùng một nòi hoặc loài có cùng quỹ gen

chung và có cùng một gới hạn phân bố địa lý nhất điịnh.



Mục tiêu của việc đánh giá trữ lượng:







Đưa ra cơ sở khai thác tối ưu nguồn lợi thuỷ sản: mức khai thác cho phép

để đảm bảo năng suất tối đa về trọng lượng một cách bền vững.

Dự báo sự biến đổi trong tương lai về năng suất, sản lượng, giá trị đánh

bắt trong các mức độ khai thác khác nhau.



Phương pháp khảo sát đánh giá nguồn lợi thuỷ sản

Đây là phương pháp khảo sát, đánh giá nguồn lợi thuỷ sản ven biển và nội

đồng. Trên cơ sở các bước khảo sát, ta tập hợp nguồn số liệu đã thu thập để

phân tích, xử lý và đánh giá nguồn lợi trong vùng nghiên cứu.

1. Số liệu khảo sát tại hiện trường

Khảo sát cụ thể trên tất cả các loại ngư cụ đang khai thác trong vùng nghiên

cứu và đặc điểm như :















Ngư trường khai thác

Loại ngư cụ (mô tả)

Tên ngư cụ

Thời gian khai thác

Thành phần loài khai thác

Sản lượng khai thác



2. Số liệu thu thập từ ngư dân

Chọn ngư dân tiêu biểu cho từng loại ngư cụ đặc trưng trong vùng nghiên cứu.

Qua phiếu điều tra ta sẽ thu thập những số liệu sau:





Tên ngư cụ















Ngày khai thác

Thời gian khai thác

Thành phần loài khai thác chính

Sản lượng khai thác: kg/ ngày, kg/ tháng, kg/mùa, tấn/năm

Phân loại sản lượng khai thác/ một mẻ khai thác.



3. Số liệu thống kê từ cơ quan quản lý thuỷ sản tại địa phương

Qua phiếu điều tra đã thiết kế sẳn, gửi đến cơ quan quản lý ngành thuỷ sản địa

phương, những số liệu cần thiết được cung cấp:

















Tổng số dân cư trong vùng nghiên cứu

Bao nhiêu người dân trong vùng có liên quan đến nghề khai thác thuỷ sản

o Bán chuyên nghiệp

o Chuyên nghiệp

Thống kê chi tiết các ngư cụ trong vùng nghiên cứu

Thống kê chi tiết ngư dân sử dụng từng loại ngư cụ cụ thể

Thời gian khai thác của từng loại ngư cụ

Mùa vụ khai thác cuả từng loại ngư cụ



4. Xử lý và đánh giá nguồn lợi trong vùng nghiên cứu

Với ba nguồn số liệu đã thu thập trên, chúng ta thiết kế phần mềm Exel đơn

giản để xử lý. Từ ba góc độ nhìn khác nhau, chúng ta có thể đánh giá một cách

tương đối về nguồn lợi thuỷ sản trong vùng nghiên cứu.



Những nét tổng quát về đánh giá trữ lượng đàn cá

Số liệu thu thập càng nhiều thì mức độ chính xác của việc đánh giá trữ lượng

đàn cá càng cao. Khả năng nầy tương quan với sự phát triển nghề cá. Trong

trường hợp đàn cá chưa bị khai thác, cách đánh giá phải dựa trên cơ sở sinh

thái chung hoặc các chuyến khảo sát nghiên cứu nghề cá. Ngay khi khai thác

bắt đầu, chính nghề cá có thể cung cấp cơ sở số liệu để có thể đánh giá phức

tạp hơn. Ở một nghề cá phát triển cao, phần lớn thuộc về đàn cá đã bị khai

thác. Như thế sẽ dễ dàng cho việc thu mẫu hoặc thu thập số liệu. Phương pháp

luận đánh giá và dự báo đàn cá thay đổi tương ứng với số liệu thu được tăng

lên. Trong khi những đánh giá sơ bộ có thể chỉ dựa vào mối quan hệ giữa năng

suất sơ cấp và thứ cấp hoặc so sánh vùng chưa được khai thác và vùng đã

được khai thác có cùng đặc điểm chung về môi trường.

Những đánh giá về trữ lượng đàn cá sống đáy hoặc sống nổi chưa bị khai thác

có thể thực hiện bằng phương pháp đơn giản là dùng lưới kéo.



Các vấn đề chung về đánh giá trữ lượng

Có hai loại số liệu chính theo thứ tự ưu tiên:

1. Số liệu thu từ nghề cá thương phẩm





Tổng sản lượng (theo loài, khu vực và ngư cụ khai thác).



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (139 trang)

×