Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.68 KB, 135 trang )
Tạo ra, và làm được điều này, đầu tiên phải nói tới vai trò có tính chất
quyết định của đội ngũ các nhà văn tiêu biểu như: Vũ Thị thường, Nguyễn
Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài, Hồ Anh Thái, Y Ban, Võ
Thị Hảo, Trần Thị Mai, Dạ Ngân, Tạ Duy Anh, Nguyễn Thị Ấm, Lê Minh
Khuê, Thái Bá Tân, Phạm Thị Thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Võ Thị Xuân
Hà, Đỗ Hoàng Diệu, Nguyễn Thị Diệp Mai, Nguyễn Ngọc Tư... Qua đó cho
thấy sự phát triển hùng hậu, đa dạng mọi ngành nghề, mọi lứa tuổi, giới… đã
tham gia tích cực vào quá trình sáng tác văn học.
Nhìn vào đội ngũ nhà văn viết truyện ngắn sau 1975, một điều dễ thấy
là có sự kết hợp của nhiều thế hệ. Bên cạnh những nhà văn trưởng thành trong
kháng chiến chống Mỹ, như: Nguyễn Minh Châu, Bùi Hiển, Nguyễn Khải,
Nguyễn Quang Sáng, Ma Văn Kháng, Xuân Thiều, Nguyễn Trọng Oánh, Lê
Lựu… là sự xuất hiện của những cây bút trẻ. Họ đã góp phần làm thay đổi bộ
mặt và diện mạo của văn xuôi đương đại. Các sáng tác của Nguyễn Huy
Thiệp, Nguyễn Quang Lập, Tạ Duy Anh… đã mang lại cho văn xuôi những
sắc thái mới mẻ. Đọc những cây bút này, người ta có thể chê trách điều này,
điều nọ, thảo luận lại nhiều vấn đề, nhưng không thể không thừa nhận những
đổi mới mà họ đã đem đến trong văn xuôi giai đoạn này. Trên đà đổi mới đó,
sang đầu những năm 2000, văn xuôi đương đại lại có những chuyển động mới
ngoạn mục với những gương mặt đa dạng và độc đáo làm chấn động văn đàn:
Nguyễn Ngọc Tư, Nguyễn Bình Phương, Nguyễn Đình Tú, Nguyễn Danh
Lam… Dù chưa thật toàn mỹ, nhưng phải ghi nhận những chuyển động của
văn xuôi ở đầu Thế kỷ 21 hứa hẹn những thành tựu lớn…
Một đặc điểm khá nổi bật của truyện ngắn sau 1975 là sự xuất hiện
đông đảo những nhà văn nữ. Đây là một nét riêng, phản ánh tiến trình phát
triển và hội nhập của văn học Việt Nam sau 1975. Theo thống kê của Bùi Việt
Thắng, kể từ thời ky đổi mới (1986) đến nay có tới 75% người viết truyện
ngắn là nữ. Vì thế, đã có người xem đây là thời ky “âm thịnh, dương suy” của
truyện ngắn Việt Nam. Trong số đó nổi lên một số tên tuổi, như: Phạm Thị
Hoài, Y Ban, Võ Thị Hảo, Nguyễn Thị Ấm, Dạ Ngân, Trần Thuy Mai,
14
Nguyễn thị thu Huệ, Phan Thị Vàng Anh, Đỗ Bích Thuỷ, Võ thị Xuân Hà,
Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Hoàng Diệu… Nhiều sáng tác của họ đạt giải “thủ
khoa”, “á khoa” như: Hậu Thiên Đường của Nguyễn Thị Thu Huệ, Bức thư
gửi mẹ Âu Cơ của Y Ban, Người sót lại rừng cười của Võ thị Hảo, Thị trấn
hoa quỳ vàng của Trần Thuy Mai, Gia đình bé mọn của Dạ Ngân, Cánh đồng
bất tận của Nguyễn Ngọc Tư… Nhìn chung các nhà văn nữ có lúc đã vắt kiệt
sức mình để dâng hiến cái đẹp cho đời, nhưng để thực sự quyên mình, “hi
sinh” cho nghề nghiệp thì chưa có, do vậy danh hiệu viết truyện ngắn xuất sắc
nhất sau 1975 vẫn được trao tặng cho những cây viết nam, mà tiêu biểu là
Nguyễn Huy Thiệp với những đổi mới, cách tân mang tính đột phá về thể loại
truyện ngắn.
Có thể thấy, dù chỉ mới trong khoảng thời gian hơn 30 năm sau chiến
tranh (1975) nhưng văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng đã có những
phát triển đáng kể trên nhiều phương diện. Sự phát triển này không chỉ ở chỗ
ngày càng xuất hiện đông đảo đội ngũ các nhà văn với hàng loạt tác phẩm
mới ra đời, mà cái quan trọng hơn trong sự phát triển của văn xuôi đã được
ghi nhận trên các bình diện như: đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người,
đổi mới tư duy nghệ thuật, đổi mới thể tài và phương thức thể hiện… Tất cả
những kết quả này không chỉ là luận chứng chứng tỏ bước phát triển của văn
xuôi sau 1975, mà còn là cơ sở, tiền đề để xem văn xuôi sau 1975 với tư cách
là một giai đoạn phát triển độc lập trong sự phát triển của văn xuôi Việt Nam
hiện đại. Văn xuôi Việt Nam sau 1975 là một hiện tượng đang phát triển.
1.1.2. Các đề tài nổi bật
Có thể nói, đề tài là cơ sở quan trọng nhất để nhà văn, người nghệ sỹ
khái quát, thể hiện chủ đề và xây dựng những hình tượng, những tính cách
điển hình. Tuy nhiên trong thực tế, có nhiều trường hợp đề tài, chủ đề hoà
quyện vào nhau không tách được, như một số tác phẩm ngụ ngôn, truyện
đồng thoại, một số thơ trữ tình… Do hoàn cảnh lịch sử cũng như những yêu
cầu chung của thời đại, nên chúng ta rất dễ dàng nhận ra hai dạng đề tài nổi
bật trong văn học Việt Nam hiện đại là đề tài người cán bộ chiến sỹ cách
15
mạng và quần chúng cách mạng, hai đề tài này thể hiện rõ nhất và tập trung
nhất ở giai đoạn 1945 - 1975. Nói như vậy không có nghĩa là giai đoạn này
không có những đề tài, chủ đề khác trong sáng tác văn học, ít nhiều, tập trung
hay không tập trung, có khi là sự thoảng qua, hay một dấu hiệu, một sự manh
nha… và sẽ là cơ sở, tiền đề quan trọng để các văn nghệ sỹ đi vào khái quát
hiện thực cuộc sống xã hội, điều này thể hiện rõ ở một loạt các đề tài, chủ đề
được mở ra trong sáng tác và đã đem lại những thành công rõ nét cho truyện
ngắn sau năm 1975 (nhất là từ sau 1986 lại nay).
Những năm đầu sau khi cuộc kháng chiến chống Mỹ thắng lợi, nền văn
học cơ bản vẫn tiếp tục phát triển theo quán tính từ trong thời ky chiến tranh.
Đề tài về chiến tranh và người lính vẫn bao trùm lên hầu hết các sáng tác. Tuy
nhiên, trong truyện ngắn (vừa) thấy rõ nét một hướng đi vào những khoảnh
khắc thường nhật của chiến tranh, đi sâu hơn vào diễn biến tâm lý của nhân
vật, vào những cảnh ngộ và xung đột nội tâm. Bởi lẽ, “Truyện ngắn cũng có
ưu thế trong việc đặt nhân vật trong mối tương quan hôm qua và hôm nay, để
làm nổi bật lên những vấn đề có ý nghĩa đạo đức nhân sinh” [48]. Cùng quan
điểm này, tác giả Phan Cự Đệ cũng cho rằng “Cách khai thác những vấn đề
chiến tranh trong mối tương quan quá khứ - hiện tại như thế làm cho truyện
ngắn của ta sau 1975 có một bước phát triển mới, ngày càng hiện đại hơn, đáp
ứng nhu cầu bạn đọc ngày càng tốt hơn. Bởi nó không dừng lại ở trực giác mà
đi sâu vào tâm lý, tiềm thức”[18]. Điều này cho thấy, đã có sự đổi mới quan
niệm nghệ thuật về con người, đổi mới tư duy nghệ thuật, đổi mới hệ đề tài và
phương thức thể hiện… ở các nhà văn. Ngay tên gọi của tác phẩm đã phần
nào thể hiện điều đó. Nếu trước đây Lê Lựu là Người về đồng cói, Mở rừng
thì bây giờ là Thời xa vắng; Ma Văn Kháng trước đây là Xa phủ thì bây giờ là
Mùa lá rụng trong vườn, Đám cưới không có giấy giá thú; nếu Nguyễn
Quang Sáng trước đây là Chiếc lược ngà, Mùa gió chướng, Chị Nhung…. thì
bây giờ là Tôi thích làm vua, Thế võ… Rõ ràng trước một hiện thực mới, một
công chúng mới không cho phép nhà văn viết như cũ, sự đổi mới của các nhà
văn do đó gần như là một tất yếu sống còn của chính họ.
16
Một trong những đề tài nổi bật được nhiều thế hệ các nhà văn khai thác
sau 1975 đến nay đó là đề tài đạo đức. Điều này cũng dễ hiểu, vì sau 1975,
cuộc sống hòa bình bắt đầu với bao vấn đề mới mẻ, bức xúc thời hậu chiến.
Đời sống chính trị không còn là đối tượng phản ánh duy nhất của văn xuôi,
của truyện ngắn đương đại. Từ việc chỉ ra “đổi mới là yêu cầu bức thiết của
sự nghiệp cách mạng” đến sự “khuyến khích văn nghệ sĩ tìm tòi, sáng tạo, và
yêu cầu có những thể nghiệm mạnh bạo, rộng rãi trong sáng tạo nghệ thuật và
phát triển các loại hình và thể loại nghệ thuật, các hình thức biểu hiện”
(Nguyễn Đăng Mạnh), một hướng đi mới mở ra cho truyện ngắn đương đại.
Sự đổi mới đầu tiên có lẽ bắt đầu từ việc mở rộng phạm vi phản ánh hiện
thực. Từ một hiện thực chủ yếu được giới hạn trong đời sống chính trị xã hội,
truyện ngắn đương đại đã tìm đến một hiện thực rộng lớn hơn của đời sống
nhân sinh thế sự: “Hiện thực của đời sống hằng ngày với các quan hệ vốn dĩ
đa đoan đa sự, phức tạp chằng chịt, đan dệt nên những mạch nổi và mạch
ngầm của đời sống” (Nguyễn Văn Long). Đó là nền tảng cho sự mở rộng đề
tài trong truyện ngắn thời đổi mới, trong đó, đề tài đạo đức xã hội là một đề
tài mới mẻ, mảnh đất màu mỡ mà các nhà văn hướng đến. Từ đây, các nhà
văn truy tìm trong cơ chế thị trường đã làm nảy sinh tiêu cực, và không ngần
ngại đưa vào trang viết những hiện tượng tiêu cực của xã hội, thể hiện tính dự
báo trong thời đổi mới: Con người luôn cảnh giác, tránh xa cái phi đạo đức,
phi nhân cách. Lên án, phê phán những hiện tượng xấu xa, bỉ ổi, những việc
làm sai trái… Như vậy, đề tài đạo đức xã hội trước hết bắt nguồn từ sự nhận
thức của nhà văn trước hiện thực của cuộc sống, mà sự hiện hữu của nó là
những hiện tượng tiêu cực, sự tồi tệ, sự tha hoá, nhếch nhác của xã hội, sự suy
đồi đạo đức của con người. Truyện ngắn thời ky đổi mới thâm nhập vào đời
sống đạo đức xã hội, nhân sinh sang tái tạo đạo đức cho con người, đó là nỗi
ưu tư, trăn trở của mỗi nhà văn. Đây cũng là lý do để hàng loạt tác phẩm ra
đời như Người vãi linh hồn (Vũ Bão), Những người thợ xẻ (Nguyễn Huy
Thiệp), Ngôi nhà trên cát (Dương Thu Hương), Hậu thiên đường, Đêm dịu
dàng (Nguyễn Thị Thu Huệ), Bức tranh (Nguyễn Minh Châu), Kịch câm
17
(Phan thị Vàng Anh), Món tái dê, Lũ con hoang (Hồ Anh Thái), Kẻ sát nhân
lương thiện (Lại Văn Long)...
Truyện ngắn sau 1975, đã phát huy khả năng tiếp cận trên bình diện
đạo đức xã hội một cách nhanh nhạy và sắc bén. Nguyễn Minh Châu là nhà
văn tiên phong, nhạy cảm nhất. Ông lên tiếng kêu gọi mọi người hãy cứu lấy
nhân tình. Tác phẩm Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam giúp ta hiểu sâu sắc về
hiện thực tha hoá, nguội lạnh của con người trước người thân và đồng loại.
Quá đó, tác giả cắt nghĩa vai trò của đồng tiền, địa vị, danh vọng đã đến lúc
làm mờ mịt con người, khiến họ có nguy cơ trở thành nạn nhân của chính
mình. Bùi Hiển với Cái bóng cột cũng đã trực tiếp lên tiếng báo động về sự
xuống cấp của con người. Qua việc khắc họa nhân vật, ông muốn đặt vấn đề
về sự tồn tại có ích của con người trên trái đất. Cá nhân luôn được quan tâm,
nhưng chủ nghĩa ích kỉ và sự thờ ơ thì phải bị lên án. Đây chính là tinh thần
nhân bản toát ra từ tác phẩm của nhiều nhà văn. Sự tha hoá đạo đức của con
người diễn ra mọi lúc, mọi nơi trong cuộc sống. Lúc xâm thực ào ạt, lúc nhấm
nháp dần mòn. Nó như một thứ vi trùng âm thầm, tinh vi len lỏi vào từng con
người, làm biến đổi nhân cách con người lúc nào không hay biết! Với tư cách
là người trong cuộc, Hồ Anh Thái hiểu đến từng chân tơ kẽ tóc cuộc sống
công chức, nên ông đã tái hiện rất chân thực các mảng tối, mảng khuất đằng
sau cái bề mặt hào nhoáng, lịch sự của thế giới trí thức công sở. Trong tác
phẩm Phòng khách, Hồ Anh Thái đã phơi bày lối sống thực dụng, hám danh
vọng, chạy theo vật chất của những kẻ hãnh tiến. Họ đã chen chúc cố lọt cho
được vào phòng khách của một vị quyền thế để giành cơ hội gặp giới ngoại
giao, hi vọng đến một nước để dự chiêu đãi quốc khánh tạo đà cho cả một
chuyến đi nước ngoài hoặc một cơ hội thăng tiến. Bên cạnh những dục vọng
sục sôi là lối sống ích kỉ, nhỏ nhen, đố kị, và nhiều khi dẫn đến sự độc ác, tàn
nhẫn trong việc đối xử lẫn nhau. Với cuộc sống nhàn nhã, tẻ nhạt trong văn
phòng khiến họ để ý, soi mói, ghen ghét, đố kị lẫn nhau. Họ ganh đua hơn
kém một cách kịch liệt dẫn đến kết cục bi thảm (Chim anh chim em). Họ thù
18
những kẻ ghét mình (Tự truyện). Họ nói xấu, bôi nhọ, hãm hại lẫn nhau
(Bóng ma trên hành lang).
Một khi, cuộc sống gia đình được đặt vào bối cảnh cụ thể, và chịu sự
tác động đa chiều của xã hội thì lối sống ích kỉ, buông thả theo những dục
vọng thấp hèn, đồng tiền trở thành lực vạn năng, bất chấp mọi nguyên tắc và
những chuẩn mực đạo đức, trong thực tế đã biến không ít những con người
trở thành bất nhân, bất nghĩa . Một khi con người đã đánh mất đi phần nhân
tính, thì chỉ còn là một động vật bình đẳng trước đồng loại. Đó là nỗi đau, là
niềm nhức nhối của lương tri mà Nguyễn Huy Thiệp gióng lên một hồi
chuông mang ý nghĩa cảnh báo trong truyện ngắn Tướng về hưu. Trong cơn
luân chuyển thời đổi mới, xã hội Việt Nam không chỉ có những con người tha
hoá trên lĩnh vực kinh tế, chính trị, của tầng lớp trí thức, mà có cả sự tha hoá
của người già, trẻ, người lãnh đạo, nhà giáo, hoạ sĩ, bọn ma cô, buôn lậu.
Đồng tiền biến họ thành con thiêu thân, đắm chìm trong trường lạc. Sang
sông (Nguyễn Huy Thiệp) là cả một thế giới tha hoá, một bức tranh nhân thế:
Từ nhà sư, nhà giáo, nhà thơ, đến đôi tình nhân trẻ... đều trở thành kẻ đầu
hàng cái ác, để cái ác hoành hành. Cuộc sống càng hiện đại, con người càng
văn minh, thì càng xuất hiện nhiều cảnh nhố nhăng, bỉ ổi. Con người trong
cuộc sống hiện tại, luôn phải kiểm chứng mình thông qua nhiều mối quan hệ.
Đạo lý làm người đang có nguy cơ trở nên xa lạ với sự phát triển của văn
minh đô thị. Con người phải buộc thay mình, đổi dạng để thích nghi với quá
trình diễn biến phức tạp của cuộc sống. Vì thế, con người được đặt trong
những tình huống bắt buộc phải lựa chọn cho mình một hành vi đạo đức cụ
thể, qua đó, phẩm giá của con người được thẩm định một cách rõ nhất. Đọc
truyện ngắn Kịch câm (Phan Thị Vàng Anh) độc giả sững sờ trước những
xung đột và diễn biến trong thiên truyện. Sự im lặng đến trống vắng giữa
người cha và cô con gái qua màn kịch câm. Nội dung xoay quanh một tờ giấy
mà người con đọc được đã bộc lộ hết sự phản ứng của cô đối với thói đạo đức
giả của người bố đang nhân danh nhà giáo. Hướng về đề tài đạo đức xã hội,
các nhà văn đã thể hiện được bản lĩnh trong việc dùng ngòi bút tham gia trợ
19
lực vào cuộc đấu tranh giữa cái tốt, cái xấu, cái đạo đức và phi đạo đức đang
âm thầm diễn ra hằng giờ, hằng ngày ở ngoài xã hội, trong từng gia đình và
bên trong mỗi con người. Trên phương diện này, truyện ngắn thời đổi mới
thực sự là “chiến sĩ” tích cực, xuất sắc trên mặt trận tư tưởng của Đảng. Đi
theo hướng này, truyện ngắn đã mở ra một hướng tiếp cận hiện thực mới, góp
phần vào việc mở rộng đề tài, làm nên sự phong phú đa dạng của khu vườn
văn xuôi sau 1986.
Bên cạnh mảng đề tài đạo đức xã hội thu hút khá nhiều nhà văn tham
gia, hay nói đúng hơn là một vấn đề nhạy cảm, có sự ảnh hưởng sâu rộng đến
mọi mặt của đời sống xã hội đã nảy sinh, phát sinh trong thời bình, mà các
nhà văn là những người có sứ mệnh dự báo, phê phán, lên án “sự lệch
chuẩn”, thì mảng đề tài đời tư, thế sự cũng phát triển mạnh và dần trở thành
chính yếu trong sáng tác văn xuôi nói chung và truyện ngắn nói riêng. Con
người bình thường, đời thường được chú ý và thể hiện sâu sắc với những số
phận bất hạnh, những thân phận bi kịch. Đấy là bi kịch của một thời con
người phải hy sinh “cái Tôi” cá nhân để vươn tới “cái Ta” tập thể một cách
giản đơn, cứng nhắc để rồi suốt đời thất bại. Đấy là bi kịch của những ân hận
xót xa, dằn vặt vì những lỗi lầm mà con người vô tình hay cố ý gây ra (Bức
tranh)… Có một khuynh hướng nổi lên rất rõ là sự nhận thức lại một thời. Dù
những “nhận thức lại” đó có chỗ chưa ổn, thậm chí có màu sắc “phủ định quá
khứ”, nhưng với cách nhìn đó hiện thực được đào sâu hơn, và cái quan trọng
là mang đến trong văn xuôi tính phân tích, tính triết luận cần thiết. Truyện
ngắn thế sự đã khơi đúng cái nguồn mạch sở trường của nó: đầy nếm trải, suy
tư, chiêm nghiệm, “giải phẫu” sự vật hiện tượng để đi đến cùng cái bản chất
của nó, và tác phẩm có ý nghĩa cảnh tỉnh và nhận thức rất sâu sắc, đáp ứng
được nhu cầu phân tích, lý giải suy tư về con người, xã hội của một thời đầy
biến động. Đấy là một bước phát triển quan trọng của văn xuôi phù hợp với
yêu cầu của hiện thực, của đối tượng phản ánh.
Cùng với đề tài đạo đức xã hội, đề tài đời tư thế sự, nhà văn đã không
ngần ngại khi đi vào những vùng khuất tối, gai góc của đời sống để khám phá,
20
phản ánh thế giới tinh thần đầy phức tạp và nhu cầu bản năng của con người,
đề cập đến những vấn đề bức xúc trong cuộc sống hiện đại... Với không khí
sôi nổi và dân chủ của văn học nước nhà thời kì đổi mới, văn xuôi viết về đề
tài lịch sử cũng có sự vận động, phát triển, đổi mới mạnh mẽ, thực sự gây ấn
tượng đối với độc giả. Cách nhìn nhận về lịch sử, quan niệm về lịch sử của
các nhà văn đa dạng hơn. Lịch sử không còn là “những xác chết và những sự
cố biên niên u lì” nữa mà được thổi vào tinh thần, hơi thở của cuộc sống hiện
đại. Chất liệu lịch sử được xử lí khác nhau ở mỗi nhà văn, nhưng nhìn chung
các tác giả đều cố gắng tìm kiếm những hướng đi mới, vượt thoát khỏi lối viết
truyền thống.
Với sự đổi mới đề tài, truyện ngắn sau 1975 có xu hướng trở lại với
con người cá nhân nhưng ở trình độ phát triển cao hơn, không phải kiểu con
người cá nhân chủ nghĩa, mà là một nhân cách với đầy đủ tính chất phức hợp
của nó. Sự đổi mới đề tài cùng sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người
đã đưa đến việc thay đổi hệ thống miêu tả, phương thức thể hiện, phương thức
tư duy… tạo nên bước phát triển đáng kể của truyện ngắn sau 1975.
1.1.3. Những tìm tòi, thể nghiệm
Trong cuộc sống thì sự tìm tòi, thể nghiệm luôn là một động lực thúc
đẩy tạo nên những giá trị mới, mang lại hiệu quả cao cho đời sống xã hội. Đời
sống văn học cũng vậy, nó không nằm ngoài quy luật đó. Xét về một mặt nào
đó, sự tìm tòi, thể nghiệm trong văn học không những là động lực thúc đẩy
các văn, nghệ sỹ đi tìm những giá trị mới của đời sống hiện thực, mà còn là
“chất men” gắn kết người nghệ sỹ với toàn bộ quá trình sáng tạo. Là một
trong những thể loại năng động nhất của văn học với những ưu điểm như về
dung lượng, thi pháp, tình huống, xây dựng hình tượng, nhân vật điển hình…
truyện ngắn luôn thay đổi do tác động của điều kiện lịch sử, văn hoá, xã hội.
Trước 1975, do tác động của điều kiện hoàn cảnh chiến tranh và yêu cầu của
Đảng về một nền văn nghệ cổ vũ, động viên cho hai cuộc kháng chiến giải
phóng dân tộc, văn học nói chung, truyện ngắn nói riêng mang đặc trưng “ký
21
hoá” và “sử thi hoá” rõ nét. Trong điều kiện hoàn cảnh mới của đất nước sau
1975, truyện ngắn đã có những thay đổi quan trọng.
Giới nghiên cứu cũng như giới sáng tác hầu như đều thống nhất sau
1975, truyện ngắn là thể loại gặt hái nhiều thành công, “được mùa thể loại”.
Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng tiếp theo “những vụ được mùa của truyện
ngắn, đây có thể coi là giai đoạn có nhiều truyện ngắn hay trong văn học Việt
Nam” [58, tr. 174]. Nhà nghiên cứu Bùi Việt Thắng trong công trình “Truyện
ngắn, những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại” cũng khẳng định sự thành
công của truyện ngắn sau 1975: “...truyện ngắn phát triển mạnh mẽ cả về số
lượng và chất lượng”, “truyện ngắn có bước đột khởi nhờ vào ngọn gió lành
của công cuộc đổi mới” [82, tr. 201- 203]. Về cơ bản có thể thấy nổi rõ một
số hướng tìm tòi đổi mới sau :
1.1.3.1. Sự vận động ở dạng thức cấu trúc cốt truyện
Nhìn ở dạng thức cấu trúc cốt truyện, có lẽ đây là giai đoạn mà truyện
ngắn Việt Nam có dạng thức thể loại phong phú và đa dạng nhất so với từ
trước đến giờ. Có thể nói, luồng gió đổi mới đã tạo ra không khí sôi nổi chưa
từng có trong đời sống văn học với sự phát triển đột phá của các cá tính,
phong cách. Ở loại hình văn xuôi nghệ thuật, truyện ngắn, có lẽ là sân chơi
rộng rãi nhất để các cây bút thể nghiệm và trổ ra những tìm tòi, phát kiến mới.
Có khá nhiều những “tuyên ngôn mới” về văn chương được công bố, đi liền
với tuyên ngôn là những sáng tác mang tính kiểm chứng. Qua quan sát tìm
hiểu, chúng tôi nhận thấy một số dạng thức cốt truyện sau tiêu biểu thể hiện
sự tìm tòi đổi mới của truyện ngắn sau 1975.
Truyện cực ngắn, truyện ngắn, truyện siêu ngắn (truyện mi ni)
Truyện cực ngắn hay còn gọi là truyện ngắn mi ni là khái niệm để chỉ
những truyện ngắn dưới 1000 từ. Trên thế giới, dạng thức truyện ngắn mi ni
không còn quá mới mẻ. Từ những năm cuối của thế kỷ 19, đầu thế kỷ hai
mươi, Kapka đã viết những truyện ngắn dưới 500 từ. Truyện Làng gần nhất
nổi tiếng của ông dưới 100 từ. Một số truyện khác như Những thân cây, Về
những ẩn ngữ… chỉ khoảng 50 từ. Xu hướng viết truyện cực ngắn xuất hiện
22
và rộ lên thành phong trào ở nước ta chủ yếu xuất hiện từ sau 1975. Vào
khoảng giữa thập kỷ 80, Tạp chí Thế giới mới, phụ san của báo Giáo dục thời
đại, lần đầu tiên tổ chức cuộc thi truyện ngắn mi ni. Cuộc thi đã thu hút hàng
trăm cây bút với hàng nghìn tác phẩm trên khắp cả nước. Cuộc thi không chỉ
xới lên hứng thú viết truyện mi ni mà còn tạo dấu mốc, từ nay truyện mi ni sẽ
có chỗ đứng trong sự quan tâm của độc giả Việt Nam. Trong thời đại thông
tin như hiện nay, người ta đọc truyện qua Mobile, qua các trang Web điện tử
nên xu hướng viết truyện mi ni đang là sự lựa chọn của nhiều cây bút, nhất là
những cây bút thế hệ 8X, 9X.
Đặc điểm của truyện cực ngắn là sự giản lược tối đa tình huống, tình
tiết, chi tiết truyện. Nếu truyện ngắn “sống” bằng chi tiết thì truyện mi ni
“sống” bằng ý tưởng. Tình tiết, chi tiết, tình huống trong truyện mi ni không
có giá trị tạo dựng cốt truyện mà chỉ có ý nghĩa gợi ra ý tưởng. Người đọc
không phải quá bận tâm về tình tiết, chi tiết mà cần quan tâm đến sự gợi mở
của các tình tiết, chi tiết ấy. Ở truyện cực ngắn, tình tiết, chi tiết như chiếc
chìa khoá để mở ra những lớp ý tưởng mà tác giả muốn gửi gắm và người đọc
đồng sáng tạo. Truyện Con muốn sau đây của Thúy Bắc là một ví dụ:
Cu Tí, ngoài giờ học bán trú ở trường. Buổi tối và chủ nhật còn phải
thêm môn học đàn, học vẽ, học tiếng Anh. Thằng Tèo nhà bên cạnh bố mất
sớm, mẹ nó phải nuôi ba đứa em nên Tèo phải nghỉ học. Hàng ngày mỗi khi
nghe thấy tiếng đàn của Tí, Tèo rón rén nép mình bên hàng rào nhòm vô.
Nhìn ra thấy Tèo đứng đó, Tí mếu máo: - Ba ơi, con muốn được như
thằng Tèo. [11].
Ở truyện này, ý nghĩa của truyện không nằm trong chi tiết mà nằm
ngoài chi tiết, từ sức gợi của chi tiết: Tèo, đứa trẻ thiếu cha, thèm những gì
mình không có; Tí - quá đủ đầy sinh ra tâm lý ngược lại: muốn chối bỏ những
điều kiện quá đủ đầy mà với tuổi thơ, có khi đó lại là gánh nặng, là áp lực.
Triết lý rút ra từ đây: Hạnh phúc là cái gì thật khó giải thích, bất hạnh của kẻ
này đôi khi lại là niềm mơ ước của kẻ khác. Song, ý nghĩa của câu chuyện
không chỉ có thế. Từ mâu thuẫn đằng sau tiếng cười là nước mắt, là thông
23
điệp đầy day dứt: xã hội vẫn còn nhiều những cảnh ngộ éo le như hoàn cảnh
của cu Tí; làm sao để mọi đứa trẻ đều được đến trường? làm sao để có một
nền giáo dục lý tưởng - ở nền giáo dục ấy mọi trẻ em đều được quan tâm
đúng như tinh thần của câu khẩu hiệu: “Hãy giành cho trẻ em những gì tốt
nhất”. Ở môi trường giáo dục ấy, mọi trẻ em đều tìm thấy niềm vui, hạnh
phúc, tình bạn, và niềm tin yêu vào cuộc đời. Hoặc giả, có thể còn thông điệp
khác, hãy bớt chút thời gian để quan sát cuộc sống của những người xung
quanh, ta sẽ nhìn ra mình rõ hơn, có cách sống hài hoà hơn, biết chia sẻ và
cảm thông với đồng loại.
Truyện trong truyện và truyện liên hoàn
Ngược lại với kiểu truyện mi ni, dạng thức truyện trong truyện và
truyện liên hoàn lại là hình thức kéo dài truyện, chuyện nọ kéo sang chuyện
kia hoặc gối lên nhau thành các lớp truyện hoặc chuỗi truyện nhiều khi khá
phức tạp. Tiêu biểu cho kiểu kết cấu cốt truyện này là Nguyễn Huy Thiệp.
Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp rất nhiều chi tiết, tình tiết. Mỗi nhân vật
trong tác phẩm có thể tạo ra một đường dây sự kiện riêng, một mạch truyện
riêng. Tác giả giống như người ưa la cà, và cũng là người tinh thông mọi
chuyện, vì vậy, hễ cần dừng lại để lý giải, cắt nghĩa thì dường như ngay lập
tức điều đó sẽ được làm sáng tỏ ngay. Trong truyện Tướng về hưu người đọc
thấy có một loạt mạch truyện về các nhân vật có tên trong tác phẩm: Chuyện
về tướng Thuấn, liên quan đến nhân vật chính này là chuyện về vợ tướng, con
trai của tướng, cô con dâu, hai bố con người giúp việc, ông em họ xa, cô cháu
họ xa, thậm chí một kẻ tạt ngang câu chuyện như một vết nhơ như nhân vật
Khổng ở xí nghiệp nước mắm - nhà thơ cũng được tác giả “trích ngang” mấy
dòng đủ để hình dung về loại thi sĩ nửa mùa kém cỏi về nhân cách. Truyện
Con gái thuỷ thần là ba truyện ghép lại theo cấu trúc rất rời rạc: truyện thứ
nhất, truyện thứ hai, truyện thứ ba. Đặc biệt hơn, truyện Những ngọn gió Hua
Tát lại ghép từ 10 truyện, mỗi truyện đều có nội dung riêng, tình tiết riêng.
Song, có một điều đặc biệt là, mặc dù truyện của Nguyễn Huy Thiệp có nhiều
sự kiện, mạch truyện như vậy nhưng vẫn là truyện ngắn với những yêu cầu
24