1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Khoa học xã hội >

Như vậy, có thể thấy, trong việc miêu tả hành động, nhà văn đã không “rườm lời”, ngược lại khá gãy gọt, khúc triết, bởi vậy nhân vật đã hiện lên đầy vẻ sinh động, cụ thể. Nói một cách khác hơn, trong trường hợp này, hành động đã trở thành phương tiện để n

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.68 KB, 135 trang )


phương diện cốt truyện và nhân vật luôn thể hiện mối quan hệ ràng rịt và đều

hướng đến việc thể hiện hiện thực xã hội Việt Nam sau chiến tranh, mà xứ

Nghệ là một bức tranh thu nhỏ. Qua cốt truyện và thế giới nhân vật, nhiều

vấn đề được gợi mở cho những nghĩ suy trong lòng người đọc, không phải chỉ

hôm qua mà cả hôm nay. Bức tranh hiện thực trong truyện ngắn Đức Ban khá

đa dạng, lắm mảng màu, song nổi bật nhất vẫn là hiện thực nông thôn trước

thềm đổi mới. Ở đó đã bắt đầu có sự đổi thay song vẫn còn nhiều câu hỏi đặt

ra đối với những vấn đề văn hoá, những kiếp người nhỏ bé, đơn chiếc. Đó

không chỉ là con người quê ông, một vùng quê Hà Tĩnh nhiều thương tích khi

chiến tranh đi qua, mà còn mang ý nghĩa điển hình cho nông thôn Việt Nam

những năm đầu đổi mới. Để thấy rõ hơn những vấn đề hiện thực này, chúng

tôi khảo sát, phân tích thế giới nghệ thuật trong truyện ngắn Đức Ban dưới

nhiều góc độ, phương diện khác nhau, mà ở đây là ngôn ngữ và giọng điệu.



Chương 3

NGÔN NGỮ VÀ GIỌNG ĐIỆU

3.1. Ngôn ngữ

3.1.1 Giới thuyết khái niệm

Ngôn ngữ hiểu một cách chung nhất là một hệ thống tín hiệu đặc biệt,

là phương tiện giao tiếp cơ bản và quan trọng nhất của các thành viên trong

một cộng đồng người. Ngôn ngữ đồng thời cũng là phương tiện phát triển tư

duy, truyền đạt truyền thống văn hoá - lịch sử từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Với cách hiểu này chúng ta phân biệt ngôn ngữ trên các phương diện sau:

Ngôn ngữ với tư cách là phương diện giao tiếp và phát triển tư duy của

con người với những hiện tượng khác cũng được gọi là ngôn ngữ. Ví dụ,

người ta vẫn thường bắt gặp cách nói “ngôn ngữ âm nhạc”, “ngôn ngữ điện

ảnh”, “ngôn ngữ hội hoạ”..., và trong những trường hợp này cần phải hiểu

“ngôn ngữ” là phương tiện để diễn tả, truyền đạt nào đó. Đối với âm nhạc, đó

90



là những âm thanh với những giai điệu, tiết tấu khác nhau; đối với hội hoạ, là

màu sắc, đường nét với những sắc độ, quan hệ khác nhau...

Về phương diện ngôn ngữ với tư cách là phương tiên giao tiếp nói

chung của loài người, tức là khả năng chung của các dân tộc dùng ngôn ngữ

làm phương tiện giao tiếp và các ngôn ngữ cụ thể của từng dân tộc.

Với cách hiểu từ những phương diện trên, trong cuốn “Hệ tư tưởng

Đức” của Mác và Ăngghen đã viết: “...Ngôn ngữ là ý thức thực tại, thực tiễn,

ngôn ngữ cũng tồn tại cả cho những người khác nữa, như vậy là cũng tồn tại

lần đầu tiên cho bản thân tôi nữa; và cũng như ý thức, ngôn ngữ chỉ sinh ra là

do nhu cầu, do cần thiết phải dao dịch với người khác”. [53, tr. 11].

Ngôn ngữ (Theo Bách khoa Toàn thư Wikipedia) là hệ thống để giao

thiệp hay suy luận dùng một cách biểu diễn, phép ẩn dụ, và một loại ngữ pháp

theo lôgic, mỗi cái đó bao hàm một tiêu chuẩn hay sự thật thuộc lịch sử và

siêu việt. Nhiều ngôn ngữ sử dụng điệu bộ, âm thanh, ký hiệu, hay chữ viết,

và cố gắng truyền khái niệm, ý nghĩa, và ý nghĩ, nhưng mà nhiều khi những

khía cạnh này nằm sát quá, cho nên khó phân biệt nó. Ngôn ngữ có 3 chức

năng chính: để chỉ nghĩa, để thông báo và để khái quát hóa (có quan hệ với tư

duy) Chức năng chỉ nghĩa: để chỉ chính bản thân sự vật hiện tượng, để gắn với

một biểu tượng nào đó của sự vật hiện tượng và có chức năng làm phương

tiện cho sự tồn tại, truyền đạt và nắm vững các kinh nghiệm xã hội, lịch sử

loài người.

Trong văn học, ngôn ngữ vừa là yếu tố hình thức với ý nghĩa là phương

tiện, chất liệu của hình tượng, vừa là nội dung với ý nghĩa là cá tính, cảm

quan tư tưởng của nhà văn - nó như cái lý của hình thức - đã thực sự có nhiều

đổi thay trong khoảng hơn hai thập kỉ vừa qua. Nó là công cụ, là chất liệu đặc

trưng cơ bản của văn học, là “một trong những yếu tố quan trọng thể hiện cá

tính sáng tạo, phong cách của nhà văn” [79, tr. 215]. Văn học là nghệ thuật

của ngôn từ. Ngôn ngữ là chất liệu, là phương tiện thẩm mĩ giúp nhà văn xây

dựng hình tượng văn học. M.Gorki đã viết: “Yếu tố đầu tiên của văn học là

ngôn ngữ, công cụ chủ yếu của nó và cùng với các sự kiện, các hiện tượng

91



của cuộc sống là chất liệu của văn học” [26, tr. 54]. Ngôn ngữ văn học có liên

quan mật thiết với ý thức văn học, phản ánh một cách cụ thể chính xác, sinh

động, những biến đổi của tư duy văn học. Mặt khác, ngôn ngữ cũng là một

hiện tượng xã hội, vận động không ngừng theo sự biến đổi của cuộc sống và

chính sự phát triển của ngôn ngữ thời đại cũng góp phần chi phối tư duy văn

học. Là công cụ của tư duy, là phương tiện truyền đạt tư tưởng tình cảm nên

khi tư duy nghệ thuật của nhà văn thay đổi thì ngôn ngữ nghệ thuật cũng có

những chuyển động đổi thay. Đổi mới về phương diện ngôn ngữ “đa phần

mang tính chất thể nghiệm. Không thể chối cãi rằng nó đã giúp cho văn học

mang được nhiều hơn hơi thở của cuộc sống, tăng thêm sự tươi tắn, sinh động

cho cuộc sống” [12, tr. 170].

3.1.2. Vai trò của ngôn ngữ trong truyện ngắn

Ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học, như màu sắc đối với hội họa,

âm thanh đối với âm nhạc, hình khối đối với kiến trúc. Nói cho cùng, văn học

là nghệ thuật của ngôn ngữ. Những nhà văn lớn đều là những nhà nghệ sĩ của

ngôn từ. Trong sự sáng tạo của nhà văn, sự sáng tạo về ngôn ngữ đóng vai trò

quan trọng. Trong lao động nghệ thuật của nhà văn có một sự lao tâm khổ tứ

về ngôn ngữ. Nhà văn đã sử dụng ngôn ngữ toàn dân để sáng tác tác phẩm

văn học, để sang tạo ra ngôn ngữ văn học. Giữa ngôn ngữ đời sống và ngôn

ngữ văn học có sự khác biệt. Theo Gorki, ngôn ngữ nhân dân là tiếng nói

"nguyên liệu", còn ngôn ngữ văn học là tiếng nói đã được những người thợ

tinh xảo nhào luyện. Do vậy, khi nói tới ngôn ngữ văn học thì nó nổi lên với

những đặc điểm riêng mà không thể trộn lẫn hay hoà vào các dạng ngôn ngữ

khác, đó là sự chính xác, tinh luyện; tính hình tượng và tính biểu cảm.

Truyện (hay truyện ngắn nói chung) là sản phẩm của sự sáng tạo nghệ

thuật (thuộc phạm trù tự sự) nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức, thẩm mỹ và

giải trí của con người bằng cách kể chuyện. Chuyện hấp dẫn người đọc bởi

cái cõi đời sống vừa quen thuộc, vừa lạ lẫm với hàng loạt tình tiết, sự kiện,

biến cố liên tiếp xảy ra, tạo nên một cảm giác hồi hộp, căng thẳng và bất ngờ

cho người đọc. Truyện lôi cuốn người đọc theo dõi diễn biến cuộc đời của

92



một hay nhiều nhân vật có tính cách và số phận giống mình hoặc ngược lại

với mình trong mối quan hệ chặt chẽ với hoàn cảnh với môi trường xung

quanh từ đó hiểu sâu hơn về tính cách và số phận của chúng. Truyện có khi đi

vào phản ánh đời sống tâm tư bí ẩn và tế nhị của con người. Trong tác phẩm

Hai đứa trẻ của Thạch Lam, Chí Phèo của Nam Cao có khi gây ám ảnh về

một số phận, một cuộc đời bi thảm, hay trong Tấn trò đời của Banzăc, Chiến

tranh và hoà bình của L.Tônxtôi… có thể tái hiện những bức tranh xã hội

rộng lớn trên một chiều dài của lịch sử. Truyện sử dụng nhiều hình thức ngôn

ngữ như ngôn ngữ của người kể chuyện, ngôn ngữ nhân vật (trong ngôn ngữ

nhân vật có lời đối thoại, lời độc thoại nội tâm). Ngôn ngữ của người kể

chuyện cũng được sử dụng khá linh hoạt, có khi ở bên ngoài đóng vai trò dẫn

dắt tình tiết, hành động, miêu tả sự kiện, biến cố; có khi nhập vào lời nhân

vật. Ngôn ngữ truyện và ngôn ngữ đời sống cũng có mối quan hệ gắn bó được

vận dụng uyển chuyển tạo nên sức hấp dẫn của sự sống động và chân thực.

Có thể nói với những đặc điểm ưu việt, ngôn ngữ đã thực sự tạo ra

những đóng góp có tính chất quyết định cho sự thành công của văn học nói

chung và thể loại truyện ngắn nói riêng trên nhiều phương diện, nhiều cấp

độ… nhưng rõ nét và tập trung nhất là ở ngôn ngữ trần thuật (ngôn ngữ người

kể chuyện). Đây là phương diện bộc lộ ý thức sử dụng ngôn ngữ có chủ ý của

nhà văn, thể hiện quan điểm của tác giả hay quan điểm của người kể chuyện

đối với cuộc sống được miêu tả. Ngôn ngữ trần thuật có những nguyên tắc

thống nhất trong việc lựa chọn các phương tiện tạo hình và biểu hiện ngôn

ngữ để thể hiện cảm xúc, quan điểm của tác giả. Ngôn ngữ trần thuật là yếu tố

cơ bản thể hiện phong cách nhà văn, truyền đạt cái nhìn, giọng điệu, cá tính

của tác giả. Ngôn ngữ trần thuật mang tính chính xác, cá thể hoá. Mỗi câu,

mỗi chữ trong tác phẩm có thể chứa đựng nhiều tầng ý nghĩa, nhiều cách giải

thích. Nhưng mỗi từ thì lại phải mang tính chính xác và cá thể hoá. Ngôn ngữ

trần thuật còn là ngôn ngữ đa thanh. Bởi lẽ, đặc trưng của ngôn ngữ văn xuôi

là sự tác động qua lại rất phức tạp giữa tiếng nói tác giả, người kể chuyện và

nhân vật, giữa ngôn ngữ miêu tả và ngôn ngữ được miêu tả. Ngôn ngữ đa

93



thanh trong trần thuật nhấn mạnh vào ngôn ngữ của người khác, hướng về

một tiếng nói khác; chẳng hạn tiếng nói tác giả hướng về tiếng nói của nhân

vật, hoặc tiếng nói nhân vật trong đó có xen lẫn giọng tác giả, hoặc là tiếng

nói của nhân vật này xen lẫn giọng của nhân vật khác. Hay nói cách khác,

ngôn ngữ trần thuật trong truyện ngắn vừa là yếu tố hình thức với ý nghĩa là

phương tiện, chất liệu của hình tượng, vừa là nội dung với ý nghĩa là cá tính,

cảm quan tư tưởng của nhà văn.

Có khi ngôn ngữ trần thuật lại được kể ra từ chính lời nói của nhân vật

trong chuyện, vì trong sáng tạo văn xuôi các nhà văn luôn có ý thức khai thác

tối đa khả năng của ngôn ngữ nhân vật trong việc thể hiện tính cách, tâm

trạng, số phận nhân vật. Hơn thế, ngôn ngữ còn là một cơ sở quan trọng để

biểu đạt phẩm chất và tính cách của mỗi con người, đóng vai trò quan trọng

trong quá trình cá biệt hoá nhân vật. Hệ thống nhân vật đa dạng cho phép nhà

văn sử dụng được tối đa ngôn ngữ đời thường, ngôn ngữ nhân vật và những

đoạn bình luận phụ đề tạo nên sự phong phú, đa dạng trong giọng văn. Trong

văn học hiện đại, lời - ngôn ngữ trần thuật của nhân vật có vị trí ưu trội nhất

định trong tác phẩm, là phương diện quan trọng nhất của tính tạo hình khách

thể trong tác phẩm tự sự. Ngôn ngữ trần thuật của nhân vật có thể là đối thoại

hay độc thoại. Đối thoại gắn liền với việc những người nói hướng vào nhau và

tác động vào nhau; độc thoại không nhằm hướng đến người khác và tác động

qua lại giữa người và người. Ngôn ngữ trần thuật của nhân vật có nhiều chức

năng khác nhau như: chức năng phản ánh hiện thực, chức năng tự bộc lộ của

nhân vật, chức năng là đối tượng miêu tả của tác giả hoặc chức năng thể hiện

nội tâm…. Tổng hợp những chức năng đó, thông qua trần thuật, nhân vật kể

lại cuộc đời của mình, bộc lộ tâm tư, suy nghĩ, chiêm nghiệm về cuộc đời, lẽ

sống, giúp người đọc lĩnh hội được tư tưởng, quan niệm của nhà văn. Cùng

với trần thuật tác giả, trần thuật của nhân vật góp phần hoàn thiện bức tranh

đời sống trong tác phẩm. Theo Bakhtin, “Lời nói của những nhân vật chính

trong tác phẩm tự sự - những nhân vật ít nhiều có tính độc lập về mặt tư

tưởng, ngôn từ, có nhãn quan của mình - vốn là tiếng nói của người khác bằng

94



ngôn ngữ khác, đồng thời có thể khúc xạ cả những ý chỉ của tác giả và do đó,

đến một mức độ nhất định, có thể được coi là ngôn ngữ thứ hai của tác giả.”

[10, tr. 2]. Không thể tuyệt đối hoá việc phân chia trần thuật của tác giả với

trần thuật của nhân vật. Bởi lẽ, với cách chuyển điểm nhìn từ phía người trần

thuật sang điểm nhìn của nhân vật, từ điểm nhìn bên ngoài khách quan đến

điểm nhìn bên trong chủ quan, rất khó phân biệt đâu là chủ thể của trần thuật.

Và cũng nhờ di chuyển điểm nhìn mà văn chương khám phá, chiêm nghiệm

về cuộc sống và con người một cách đa diện và có chiều sâu hơn.

Ngôn ngữ - với phương thức trần thuật, đã cho thấy vai trò hết sức to

lớn trong việc tạo ra những giá trị có tính quyết định đối với văn học nói

chung và thể loại truyện ngắn nói riêng. Nó là phương tiện quan trọng, hiệu

quả nhất để nhà văn có thể truyền tải những giá trị, tư tưởng, tình cảm...,

những nhìn nhận, đánh giá về hiện thực khách quan... đến với công chúng bạn đọc.

3.1.3. Đặc điểm của ngôn ngữ truyện ngắn Đức Ban

3.1.3.1. Kết hợp nhuần nhuyễn ngôn ngữ phổ thông và phương ngữ

Có thể khẳng định rằng, văn học là một phương thức để tái hiện cuộc

sống. Chính văn học đã dựa trên những đặc điểm thực tế cuộc sống để khái

quát và phản ánh cuộc sống dưới con mắt nghệ thuật của nhà văn; làm cho

cuộc sống trở nên sinh động và gần gũi hơn trên các trang sách. Để có được

giá trị đó, việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ phổ thông với phương

ngữ trong sáng tác văn học có một vai trò không nhỏ, nó tạo ra những giá trị

có tính hình tượng lớn hơn một đơn vị ngôn ngữ (từ, câu, đoạn văn...), giúp

nhà văn truyền tải được những chủ ý nghệ thuật một cách hiệu quả nhất tới

người đọc. Đồng thời đây cũng là nguồn bổ sung quan trọng và làm phong

phú thêm vốn từ vựng của ngôn ngữ toàn dân.

Điều này đã được thấy trong các tác phẩm văn học ở miền Nam giai

đoạn 1945 - 1975, từ địa phương được dùng tương đối nhiều với các lớp lang

có đặc điểm và giá trị khác nhau. Trong đó có những lớp rất dễ dàng thâm

nhập vào ngôn ngữ toàn dân nhưng lại cũng có những lớp không thể thâm

95



nhập được bởi rất nhiều nguyên nhân khác nhau. Trước hết có thể thấy những

từ địa phương mới xuất hiện trong cuộc kháng chiến chống Mĩ sẽ dễ dàng

được thâm nhập vào ngôn ngữ toàn dân. Những bá đỏ, ngựa trời, mũ tai bèo,

chém vè, phá banh, bố, ác ôn, đồng khởi, bưng biền... sẽ rất dễ dàng trở thành

ngôn ngữ toàn dân bởi tính mới mẻ và sinh động của chúng, phản ánh đúng

hoàn cảnh chiến đấu của nhân dân miền Nam: "Bữa đó ảnh bắn cây bá đỏ, tả

xông hữu đột với mấy con trực thăng cá nhái, giải thoát cho hành khách" (21,

tr. 127) hay "Hỏi ra mới biêt hôm đó nghe tin giặc bố ngoài sông, chị mướn

xuồng chở ít dưa sang cầu lộ bán, tiện dịp thăm dò tình hình giặc ngoài đó ra

sao" (87, tr. 6)... Trong các tác phẩm văn học sau 1975, việc khai thác phương

ngữ trong các sáng tác gần như là một phương thức nghệ thuật được các nhà

văn sử dụng khá đa dạng dưới nhiều góc độ khác nhau. Chúng ta dễ bắt gặp

phương ngữ địa phương đậm chất Tây Bắc trong seri truyện của Tô Hoài như

Truyện Tây Bắc, Họ Giàng ở Phìn Sa; các sáng tác đậm chất Huế của Võ Thị

Xuân Hà như Chuyện người con gái hát rong, Trôi trong sương mù..., hay

ngôn ngữ mang đậm hơi thở Tây nguyên của Nguyên Ngọc được thể hiện khá

rõ nét trong hai tác phẩm Đất nước đứng lên, Rẻo cao, và phương ngữ đậm

chất nam bộ trong Cánh đồng bất tận của Nguyễn Ngọc Tư... cùng nhiều nhà

văn khác như Ma Văn Kháng, Nông Minh Châu, Vi Hồng… cũng đã có

không ít tác phẩm vận dung linh hoạt, đầy sáng tạo các phương ngữ của nhiều

địa phương trong cả nước.

Ở góc độ này Đức Ban cũng vậy, ông đã sử dụng và kết hợp khá nhuần

nhuyễn giữa ngôn ngữ phổ thông và phương ngữ Nghệ tĩnh trong một số tác

phẩm, và ít nhiều đã phát huy tác dụng, đã chuyển tải được dụng ý của nhà

văn, thể hiện được tính cách nhân vật, đặc trưng của một vùng quê... Trong

truyện Khúc hát ngày xưa, ngay đầu câu chuyện, chúng ta đã bắt gặp phương

ngữ xứ Nghệ qua lời của hai nhân vật chị Nhàn và anh Thắng “Thôi, chú nghỉ

tắm táp đi. Đêm nay nước cường (…) Vẽ chuyện! Ra giếng mà dội; nước

trong vắt, mát lạnh” [9, tr. 7], “Tội với chả tình, cái mắt nó nhìn con Thảo như

mắt chó nhìn thịt. Cô mà để con Thảo gặp nó thì liệu thần hồn” [9, tr. 16],

96



chúng ta còn bắt gặp sự xuất hiện của các phương ngữ tương đối đều như:

ram ráp, chung chiêng, ngoẹo, cởi truồng, đếch, bụi, chi, mày, cồn, bứu, dằng

dịt, đống lúa, nước ròng, mùa màng ngộn ngốt... Hay lời của nhân vật người

đàn bà điên trong Tiếng đêm “Trăng nằm là nằm trên nóc miếu y ra sóng soài.

Đợi nó là về i a... nó chết... thuở tám hoánh... i...a.” [9, tr. 146]. Sự kết hợp

nhuần nhuyễn giữa ngôn ngữ phổ thông và phương ngữ còn được thể hiện khá

tinh tế qua đoạn hội thoại giữa hai nhân vật Anh và Cô trong Miếu làng:

“- Nếu tôi có mang thì... - Cô vuốt mái tóc dài lửng lưng, nói

- Thì sao? - Anh hỏi, bàn tay không rời khỏi bầu vú rắn căng của ả.

- Thì anh phải cưới tôi chứ sao trăng gì nữa.

- Cưới và ở trên thuyền, hé?

- Ở trên chạng ba cây cừa cũng xong. - Chị nhìn lên bờ sông, nhoẻn

cười.” [9, tr. 154]. Cũng trong tác phẩm này xuất hiện khá nhiều các phương

ngữ như “nom còn, trống hoang, cái đận gian khổ, tiếng hát khê cháy, đòn

bánh đúc”...

Có thể thấy trong các truyện ngắn của Đức Ban, phương ngữ (ngôn ngữ

địa phương) được tác giả sử dụng không nhiều, mật độ không dày đặc như ở

một số tác phẩm của một số tác giả đã nêu, nhưng qua khảo sát phần nào cho

thấy, các phương ngữ mang âm hưởng của miền Trung đã được tác giả chọn

lọc và kết hợp với ngôn ngữ phổ thông trong các tình huống truyện khá tinh tế

và phát huy tối đa hiêu quả. Nhà văn đã thể hiện ý thức tìm tòi, sáng tạo từ

ngữ, đặc biệt là một số từ láy như: xõa xượi, lăm răm, đùi đụi, khuềnh

khoàng, loạp roạp, rí rách, tung tinh, tốc tác, chuầy chòa... Mật độ các

phương ngữ cũng xuất hiện nhiều hơn ở các truyện nói về đề tài nông thôn

như; Khúc hát ngày xưa, Ngôi sao hôm leo lét, Hoa bần, Mắt giếng, Miếu

làng... Phương ngữ được đặt vào trong lời nói của chính các nhân vật trong

những ngữ cảnh cụ thể, phần nào đã thể hiện được tính cách nhân vật đặc

trưng cho vùng, miền. Con người miền Trung với sự cần cù, chịu khó, thật

thà, chất phác, giàu lòng vị tha... được bộc lộ qua chính ngôn ngữ giao tiếp

của nhân vật trong truyện. Có thể thấy qua bảng khảo sát, thống kê sau:

97



Bảng 02: Khảo sát, thống kê việc sử dụng từ địa phương trong 15

truyện ngắn của tuyển tập Đức Ban tác phẩm chọn lọc

TT

1

2

3

4

5

6

7

8

9

10

11

12

13

14

15

Tổng



Tên truyện

Khúc hát ngày xưa

Cô Tề làng tôi

Mồng mười tháng Tám

Chuyện vẫn còn

Người đàn bà choàng khăn

Sông nước

Chuyện quanh quán cây dừa

Đêm thức

Mắt giếng

Sóng Bến Duyềnh

Tiếng đêm

Miếu làng

Hoa bần

Bến tắm

Đền thờ Đức Thánh Mẫu

15



Từ địa



Số lần xuất



Tỷ lệ



phương



hiện (SL)



(%)



X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X

X



6

13

12

13

16

23

9

3

8

13

8

11

9

3

8



3,87

8,39

7,74

8,39

10,32

14,84

5,81

1,94

5,16

8,39

5,16

7,10

5,81

1,94

5,16

100



155



3.1.3.2. Sử dụng nhiều ngôn ngữ mang tính tạo hình

Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp ky diệu nhất của con người. Văn học

là một hình thức giao tiếp. Khác với các loại hình nghệ thuật khác, văn học

lấy ngôn từ làm chất liệu. Với chất liệu đó, văn học chứa đựng khả năng giao

tiếp mà không phải loại hình nghệ thuật nào cũng có thể có được. Cũng vì

vậy, để hiểu được đặc trưng, tính chất của văn học, chúng ta phải bắt đầu với

chất liệu của nó là ngôn từ nghệ thuật mà cơ sở là các khả năng và phương

tiện biểu đạt của ngôn ngữ với các đơn vị: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp, các

phương thức tu từ. Chính sự phong phú, đa dạng, đầy tiềm năng của ngôn ngữ

đã tạo nên tính thẩm mỹ trong ngôn ngữ văn học.

Tính độc đáo của mỗi loại hình nghệ thuật là do tính chất của các

phương tiện vật chất dùng để xây dựng hình tượng trong loại hình.Văn học

nghệ thuật là một nghệ thuật ngôn từ; yếu tố vật chất mang hình tượng của nó

là lời nói của con người mà cơ sở là ngôn ngữ của một dân tộc nhất định.

98



Ngôn ngữ là một hiện tượng phức tạp, chức năng quan trọng nhất là giao tiếp

giữa người với người. Như vậy hình tượng ngôn từ được tạo ra không phải

chỉ bằng cách vận dụng một số phương tiện ngôn ngữ đặc biệt nào đó mà còn

bằng cách lựa chọn khéo léo các chi tiết tạo hình mà người ta có thể chỉ ra

bằng các phương tiện lời nói đơn giản nhất. Bất cứ hình thức lời nói nào trong

sự sắp xếp của người nói hay người viết nhằm tái hiện lại các sự cá biệt đều

có thể trở thành hình tượng. Có thể nói, ngôn ngữ văn học là nơi tập trung,

bộc lộ, phát huy tối đa tinh hoa, những điểm ưu việt của ngôn ngữ một dân

tộc. Không ở đâu ngôn ngữ lại biến hoá bất ngờ, giàu hình ảnh và lung linh

cảm xúc như trên mảnh đất văn học. Ngôn ngữ gồm hai mặt: cái biểu đạt và

cái được biểu đạt, song trong ngôn ngữ văn học cái biểu đạt đã không đơn

thuần chỉ là mặt hình thức âm thanh mà đã trở thành một nội dung, một ý

nghĩa, một hình ảnh với những đặc trưng thẩm mỹ của nó. Nội dung và hình

thức hài hoà, xuyên thấm cao độ.

Còn văn xuôi? Văn xuôi chỉ tổ chức ngôn ngữ như lời nói thường, như

một dòng ngôn từ tuôn chảy không ngừng (chỉ tạm nghỉ ở chỗ ngắt ý, ngắt

giọng, ngắt câu thông thường), không bị ràng buộc bởi quy luật số lượng hay

vần điệu, nhịp điệu. Do vậy, văn xuôi sẽ khai thác mạnh mẽ khả năng mô tả

(tạo hình) của ngôn từ, cái khả năng nhờ vào ngữ nghĩa của các từ để qua liên

tưởng, khiến cho người đọc hình dung cụ thể như sờ thấy các sự vật, như tận

mắt nom thấy các sự vật, cảnh huống, một khả năng mà thơ khó có thể sánh

kịp. Có thể nhận ra chỗ gần gũi bề sâu giữa văn xuôi Nguyễn Tuân với văn

xuôi của khá đông các nhà văn xuôi mà ta có thể tạm gọi là các nhà văn xuôi

"phong tục": Ngô Tất Tố và Nguyễn Công Hoan, Vũ Trọng Phụng và Nam

Cao, Nguyên Hồng và Tô Hoài, Kim Lân và Bùi Hiển,… Đây có lẽ là lớp nhà

văn đã đưa ngôn ngữ văn xuôi tiếng Việt đến độ chín mẩy, đầy đặn. Ưu thế

của ngôn ngữ mang tính tạo hình là ghi nhận cái thế giới ngoài nó; ưu thế của

nó nghiêng về nhận thức hơn là cảm xúc. Mỗi từ trong một ngôn ngữ bao giờ

cũng là khái quát và bao quát một loạt sự vật và hiện tượng cùng loại. Mỗi từ

là một sự trừu tượng. Nhưng vào tác phẩm văn xuôi, nhất là văn xuôi kể

99



chuyện, mỗi từ sẽ khắc phục tính chất khái quát và trừu tượng ấy để vẽ ra

những sự vật và hiện tượng thật cụ thể, thật cá thể, cho người đọc cảm giác

như nom thấy, sờ thấy chúng và không lẫn với vô số những cái khác, cùng

loại. Đây là chỗ bắt đầu của khả năng nhận thức vốn có ở văn xuôi. Vẻ cặn kẽ

xác thực đầy tư liệu ở văn xuôi Nguyễn Tuân, vẻ rậm rạp đầy cành nhánh

rườm rà ở văn xuôi Nguyên Hồng, vẻ chắt lọc cô gọn ở văn xuôi Kim Lân, vẻ

tỉ mẩn kỹ lưỡng ở văn xuôi Tô Hoài (có thể kể thêm nhiều nhà văn khác) đều là kết quả của xu hướng ghi nhận, nhận thức sự vật đến độ cụ thể nhất,

hình dung sự vật đến độ tròn đầy nhất.

Văn xuôi có thế mạnh ở chỗ sáng tạo ra cả một thế giới đời sống, hoặc

đúng hơn, ở chỗ bằng ngôn từ để vẽ ra trong tưởng tượng của độc giả cả một

thế giới đời sống - một thế giới có thể là tương đương theo những tỉ lệ nào đó

với thế giới thực, nhưng là một "cuộc sống khác", được sáng tạo ra bằng ngôn

từ nghệ thuật, một thế giới đặc sắc qua cái nhìn đặc sắc của từng nghệ sĩ ngôn

từ. Có lẽ, chính "độ lớn" sức gợi tạo ra trong sự hình dung của độc giả về từng

"thế giới" ấy trong vẻ ngồn ngộn như sờ mó được nó, hít thở thấy được không

khí của nó, tiếp xúc được với các con người bằng xương bằng thịt của nó với

vô vàn hành động, suy nghĩ, xử sự, liên hệ… của họ. Có lẽ chính đó là cái

khiến người ta thừa nhận vị trí vinh quang của các nhà văn lớn, các nghệ sĩ kể

chuyện vĩ đại. Người ta nhớ tới một xứ Pêtécbua của Đôxtôiepxki, một vùng

ven Pari của M. Prút, một xứ Đablin của Giôi, một xứ Praha của Káfka, một

vùng sông Đông của Sôlôkhôp … chính là bởi sức sáng tạo đó, sức sáng tạo

đã vẽ ra những con người tưởng tượng, sống, hành động trong những xứ sở

tưởng tượng mà lại khắc sâu và lay động trí nhớ người đọc nhiều hơn so với

những điều mà họ xúc tiếp thực. Sức mạnh miêu tả, sáng tạo đó ở văn xuôi

nghệ thuật bao giờ cũng gắn với sự nhận thức, hiểu biết cuộc sống và con

người.

Đức Ban cũng vậy, tuy các nhân vật, các địa danh, vùng quê trong tác

phẩm của ông chưa đạt tới mức điển hình, mang tính đại diện như các tác giả,

tác phẩm nổi tiếng, bậc thầy trong và ngoài nước. Là người khá nhạy cảm tinh

100



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (135 trang)

×