Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.68 KB, 135 trang )
đi ngược lại quan niệm nhân vật trong truyền thống bằng những quan niệm
riêng, những cách thức thể hiện riêng. Nhà văn tước bỏ nhiều khía cạnh quan
trọng trong phạm trù nhân vật song vẫn đảm bảo cho nhân vật tồn tại ở vị trí
trung tâm của tác phẩm.
Truyện ngắn hiện đại với sự phát triển phong phú, đa dạng về cách
thức, bút pháp đã tạo nên thế giới nhân vật đa dạng trong tính bút pháp. Có
những nhà văn tạo dựng nhân vật bằng nghệ thuật cá thể hoá, bằng sự sinh
động của miêu tả, kể chuyện và ở đó, nhân vật hiện lên như là sự cá biệt hình
ảnh con người trước đời sống hiện đại. Ở đó, nhân vật có ngoại hình, tính
cách, có chiều sâu tâm lý, song đó là những nhân vật - những mẫu hình người
chịu sức ép của đời sống hiện đại.
Tuy nhiên, bên cạnh những nhà văn cố tình đi sâu khai thác nhân vật
theo lối truyền thống, một trào lưu mới cũng ra đời, đó là trào lưu xây dựng
nhân vật trong khi nhân vật không có ngoại hình, không tính cách. Nhân vật ở
trong trường hợp này là con người với tư cách là những tồn tại theo kiểu bóng
dáng, trong quan hệ với khách thể (là thế giới bên ngoài). Nói đúng hơn, ở
đây nhân vật - bóng dáng con người, con người ở dạng ý niệm ở thời hiện đại,
chứ không phải con người một tồn tại vật lí. Mục đích của những nhà văn
trong việc xây dựng kiểu nhân vật này là chất vấn một số vấn đề tưởng chừng
đã đóng đinh vào lịch sử. Đó là vấn đề mối quan hệ giữa hiện thực và biểu
tượng, giữa khách thể tồn tại và sự tồn tại thông qua ngôn ngữ, giữa con
người và thế giới, những vấn đề nhân sinh. Tiêu biểu cho kiểu nhân vật này là
nhân vật của trào lưu hiện sinh và hậu hiện đại, trong đó Kafka là nhà văn tiêu
biểu nhất. Nói một cách khái quát thì trong truyện ngắn hiện đại vai trò của
nhân vật được nhường chỗ cho vai trò của lời (đây là một vấn đề mang tính
hiện thực cao). Truyện ngắn là một dạng thức diễn trình lời, chất vấn với
những vấn đề tồn tại mang tính hiện thực (“Khởi thuỷ là lời”).
2.2.2. Hệ thống nhân vật trong truyện ngắn Đức Ban
67
Đức Ban xây dựng nhân vật dưới nhiều góc độ. Mỗi góc độ có những
kiểu loại riêng, gắn với cách thức thể hiện và bộc lộ những mảng màu hiện
thực riêng.
2.4.2.1. Nhân vật từ góc nhìn xã hội
Từ góc nhìn xã hội, con người xuất hiện với nhiều kiểu loại, nhiều đối
tượng. Do đó, thật khó thống kê đầy đủ các loại nhân vật khi áp dụng góc
nhìn này. Tuy nhiên dưới tiêu chí chất lượng cuộc sống, chúng tôi vẫn nhận
thấy những kiểu nhân vật khác nhau trong truyện ngắn Đức Ban. Đó là những
nhân vật thuộc giới thượng lưu, giàu có; những người lính trở về sau chiến
tranh; những nhân vật - những cảnh đời bất hạnh do nhiều nguyên nhân khách
quan. Bên cạnh đó, Đức Ban còn xây dựng những nhân vật thuộc “hạng” bình
dân như trong tác phẩm Hoa bần (với Ông Trìu), Khúc hát ngày xưa (anh
Thắng, chị Nhàn).
Kiểu nhân vật thứ nhất có thể thấy ở các tác phẩm Chuyện quanh quán
cây dừa (với Nghiêm Hoàn, Trịnh Soa, bà Nga), Sóng Bến Duềnh (với Ông,
hắn), Tiếng đêm (ông bố), Sông nước (Hưng), Cô Tề làng tôi (ông Nghi), kể
cả trong các tác phẩm Miếu làng, Người đàn bà choàng khăn (các nhân vật là
chủ tịch xã)… Đặc điểm dễ thấy nhất của kiểu nhân vật này là dù đóng vai trò
nhân vật phụ hay nhân vật chính đều có địa vị xã hội, có quyền uy, giàu có.
Ông Nghi trong Cô Tề làng tôi có quyền uy đến độ bức ép buộc cô Tề - vốn là
lãnh đạo của ông phải nghỉ việc. “Cha tôi” có quyền uy sắp xếp được cho tôi
địa vị công tác thuận lợi, sống sung túc trong Tiếng đêm. Chủ tịch xã trong
Người đàn bà choàng khăn đã ép Bờ - người anh hùng trong chiến tranh phải
mất hết đất đai, hương hỏa và phải nương nhờ cửa Phật… Gắn với địa vị xã
hội và quyền uy, các nhân vật này thường có đặc điểm về tính cách là sống xa
cách với công chúng số đông, thậm chí ngôi nhà của họ tồn tại giữa xã, làng
mà như một sự lạc lõng trong điệu nhạc xô bồ. Thậm chí, rất nhiều nhân vật
được nhà văn gắn cho tính cách “giỏi” chạy chọt, luôn toan tính “chui sâu leo
cao”. Thằng Hưng từ cán bộ xã lên Chủ tịch xã, rồi lên quan huyện, quan tỉnh,
có đất đai nhà cửa khang trang ở thị xã (Sông nước). Nghiêm Hoàn và Trịnh
68
Soa không thôi phô những trò hề hạ bệ thù ghét nhau nhằm gia tăng quyền lực
và củng cố địa vị (Chuyện quanh quán cây dừa). Ông Nghi từ chỗ là cấp dưới
của cô Tề đã vươn lên thành lãnh đạo, lấy được lòng cán bộ công chức, thậm
chí còn tính toán “đường rút” cho cô Tề (Cô Tề làng tôi)… Điều đáng nói,
trong cách xây dựng kiểu nhân vật ở Đức Ban là đa phần đã trải qua thử
thách của bom đạn, là người lính trở về sau chiến tranh. Phải chăng, tái dựng
điều này, Đức Ban vừa muốn nói lên một thực tế tại thời điểm đó là hầu hết
cán bộ lãnh đạo đều từ chiến tranh mà trưởng thành vừa muốn nói lên sự tha
hóa về phẩm chất, đạo đức của những người vốn vào sinh ra tử? Dĩ nhiên,
cũng là người lính trở về sau chiến tranh nhưng bên cạnh những nhân vật
thành đạt còn có nhiều nhân vật phải trả giá cho sự thành thật, vô tư của mình
(tạo bức tranh đối lập). Đó là vấn đề người lính và hậu chiến - một mảng hiện
thực lớn trong tác phẩm Đức Ban mà ở phần sau chúng tôi sẽ bàn kỹ.
Do đặc điểm của nhân vật này là có địa vị, có quyền uy, lại mang trong
mình nhiều tính cách “không tích cực” nên nhà văn đã gắn cho nhân vật
không gian hết sức phù hợp. Không gian của những nhân vật này thường là
thị thành, gắn với những căn phòng rộng rãi, sang trọng (so với thời đại được
miêu tả trong tác phẩm) vốn là trụ sở, cơ quan làm việc. Thậm chí, để khắc
họa rõ nét thêm “thế mạnh” của những nhân vật, tác giả đã mô tả thêm không
gian nhà ở (nhà ở với đầy những chậu hoa cây cảnh của Nghiêm Hoàn trong
Chuyện quanh quán cây dừa), tiện nghi sinh hoạt (ô tô màu sữa của bà Nga, ô
tô màu xanh đỗ trước cửa nhà Nghiêm Hoàn trong tác phẩm Chuyện quanh
quán cây dừa)… Chính nhờ cách miêu tả kết hợp tái dựng tính cách, đặc điểm
tâm lý với không gian phù hợp đã làm cho kiểu nhân vật này bỗng dưng có
sức sống mạnh mẽ trong tác phẩm. Đọc xong các tác phẩm kể trên, gấp sách
lại, người đọc vẫn có cảm giác như nhân vật đang đi lại, cười cợt, toan tính,
thậm chí là sẽ phụ bạc, lật đổ. Đây chính là thành công trong bút pháp xây
dựng kiểu nhân vật này của Đức Ban.
Kiểu nhân vật thứ hai có mặt trong các tác phẩm Sông nước (Khang),
Mồng mười tháng tám (hai người đàn bà), Cô Tề làng tôi (cô Tề), Chuyện vẫn
69
còn (Chung), Người đàn bà choàng khăn (Bờ)… Đây là những người lính,
những TNXP trở về sau chiến tranh. Trong chiến tranh họ là những người có
nhiều đóng góp, không sợ hiểm nguy, nhiều người được đơn vị xem như là
anh hùng cô Tề, Bờ, Khang. Thế nhưng, trở lại thời bình, tuyệt đại bộ phận họ
là những người bất hạnh. Bờ tiểu đội trưởng của một tiểu đội gồm 6 cô gái
“làm nhiệm vụ trông coi kho đạn và kho thực phẩm” nhưng rồi những người
lính cùng trung đoàn bỏ rơi, thành người quá lứa giữa rừng xanh, trở về cô
không được những người không biết “mùi hun khói” chấp nhận, cô bị tước
đoạt đất đai, nhà cửa, hương hỏa, đành phải mang lư hương thờ người cha xấu
số gửi chùa và bản thân nương nhờ của Phật. Cô Tề trở về sau chiến tranh, trở
thành lãnh đạo Ty lao động, nhưng rồi chính địa vị và nhiệt huyết công việc
theo tác phong người lính đã cướp đi của cô tất cả: chồng bỏ, đồng nghiệp trù
dập, thậm chí lãnh đạo xã cũng dùng nhiều hình thức gây sức ép. Người đàn
bà thứ nhất và người đàn bà thứ hai (Mồng mười tháng tám) đều trở thành
những người quá lứa lỡ thì vì tuổi xuân gắn bó với rừng Trường Sơn, với bom
đạn, nhưng nếu người đàn bà thứ nhất còn tận dụng chút may mảy sót lại của
cuộc đời để xây dựng một tổ ấm thì người đàn bà thứ hai sống trong vô vọng
vì chờ đợi người lính năm xưa, cuối cùng tàn tạ nơi cửa rừng… Những người
lính, TNXP trở về sau chiến tranh phải nếm trải những đau khổ, có khi là
nhân phẩm, tính mạng, phải chăng Đức Ban muốn cảnh báo về một thực trạng
trong xã hội khi mà những người lính trở về sau chiến tranh đang bị thờ ơ,
lạnh nhạt, đối xử bất công, thậm chí bị truy bức đến cùng? Chính vì sự đối xử
bất công của xã hội, của những người không tham gia chiến tranh mà đã vô
tình biến những người lính năm xưa thành người cam chịu, thậm chí tự nhận
về cho mình những thiệt thòi. Từ cô Tề, Bờ, tới Khang… tất thảy đều là
những người “im lặng”. Theo chúng tôi, đây là một dụng ý của nhà văn.
Không phải những người lính ấy nhu mì hoặc không hiểu thời cuộc hoặc
không thể đấu tranh mà vì họ hiểu rằng, phần quan trọng của cuộc đời họ đã
gửi lại nơi bom đạn. Họ trở về mang theo nhiều vết tích đau thương, những
vết thương nơi không bom đạn không là gì với họ, bởi thế, họ mệt mỏi, chẳng
70
cần phải đấu tranh. Họ không đấu tranh, họ tự tìm cho mình những lối thoát:
người thì câm lặng, chấp nhận rút lui (cô Tề), người thì tự giải thoát (Bờ),
người thì nhẫn nhịn, chịu đựng (Khang)… Đánh giá ngòi bút của Đức Ban
khi viết về người lính, Hà Quảng nhận xét: “Từ tính cách nảy sinh số phận.
Nhiều nghịch lý giữa tính cách và số phận làm bật lên nội dung nhân đạo sâu
sắc. Tính triết lý của tác phẩm cũng từ đó bộc lộ” [73, tr. 31].
Kiểu nhân vật thứ ba có mặt trong các tác phẩm Miếu làng (Anh, chị),
Đền thờ Đức Thánh mẫu (lão Dụt, ông Đa, Nợi), Hoa bần (ông Trìu)… Đây
là những con người nạn nhân của những hủ tục, những định kiến ở các vùng
quê vốn rất nghiệt ngã, không thể thoát ra ngoài được. Lão Dụt là nạn nhân
trực tiếp của hủ tục, sự mê tín dị đoan; ông Đa và Nợi (cháu ông Đa) là nạn
nhân của định kiến, của sức mạnh cộng đồng làng xã, cuối cùng một người ra
hầu đền như là lấy lại thanh danh, “rửa tội” với làng, một người vóc dáng, cốt
cách tưởng sẽ thành một thiếu nữ đẹp bỗng thành một bà lão tật nguyền,
mang theo nhiều thương tích. Ông Trìu bị quan niệm cổ hũ, nghiệt ngã “một
thân một mình chỉ cần sau mét vuông” và thói hạch dịch, cửa quyền của chủ
tịch xã đã lấy đất của ông để biến ông thành kẻ vô gia cư, không nơi bấu víu,
phải nhờ vào con đò nhỏ chòng chành giữa dòng sông, cuối cùng mang bệnh
nặng, không thể đi lại và chết trong thiếu thốn, đau buồn… Những nhân vật
này, do chỗ nhà văn xây dựng họ là những người bất hạnh, phải chịu nhiều
khổ đau nên cũng kèm theo nét tính cách phù hợp. Đa phần họ là những
người cam chịu, không thoát ra khỏi hoàn cảnh, chịu chung với quan niệm
của dân làng. Vì miêu tả cuộc đời trong mảng màu tối, nên không gian ở đây
là không gian chật hẹp như: con đò, mái nhà tranh, túp lều bên miếu làng,
ngay cả ánh sáng ngọn đèn cũng leo lét, yếu ớt (ngọn đèn trong mái nhà tranh
của ông Trìu)… Không gian này không chỉ nói lên sự tù túng, nghèo khổ mà
còn cho thấy giới hạn về bối cảnh sinh hoạt của những con người này. Họ
thực chất là sản phẩm của một vùng nông thôn, suốt đời quanh quẩn bên miếu
làng, bến nước.
71
Tất nhiên, cách phân chia này thực ra cũng tương đối, bởi cũng có
những nhân vật đồng thời thuộc các kiểu trên, đành rằng là vẫn thiên về một
kiểu nhất định nào đó. Chẳng hạn như cô Tề trong Cô Tề làng tôi, cô vừa
thuộc kiểu loại thứ nhất, thứ hai và kiểu loại thứ ba, nhưng chủ yếu rơi vào
kiểu loại thứ 2, bởi vì cuộc đời cô là những chuỗi dài bất hạnh do chiến tranh
tạo nên.
Tái dựng nhân vật dưới góc nhìn xã hội, thông qua những nhân vật cụ
thể, Đức Ban đã cung cấp cho người đọc một cái nhìn tổng quan về hiện thực
xã hội dưới thời ông sống. Đó là một xã hội phức tạp, với nhiều cuộc đời,
nhiều số phận khác nhau. Cũng có những người giàu sang phú quý, cũng có
những gia đình vật lộn với mớ tôm, con cá, cũng có những người tàn lụi cuộc
đời vì những định kiện của cộng đồng, hoặc do kẻ khác gieo rắc. Tuy nhiên,
dưới cái nhìn hiện thực, soi rọi những góc khuất trong cuộc sống, Đức Ban đã
“không để” cho nhân vật của ông được hoàn toàn sống thỏa mãn trong chiếc
áo xã hội khoác cho họ (đây cũng là lẽ tất yếu của cuộc sống). Nhân vật của
ông dù địa vị, mức độ từng trải, sự va vấp trong cuộc đời là khác nhau, song
hầu như ai cũng phải trải qua những “sóng” ngầm “giữa đáy sông” có khi
tưởng chừng yên tĩnh. Đó là Nghiêm Hoàn, Trịnh Soa trong Chuyện quanh
quán cây dừa, Bách trong Mắt giếng… Chính cách xây dựng nhân vật theo
cái nhìn đó đã làm cho cuộc sống trong tác phẩm Đức Ban hiện lên chân thực
hơn, không mang tính áp đặt chủ quan, thái quá của người cầm bút. Đây là
đặc điểm mà người ta hay gọi là hiện thực được khách quan hóa, thoát khỏi sự
chi phối của nhà văn.
2.4.2.2. Nhân vật từ góc nhìn giới tính
Nhân vật từ góc nhìn giới tính được phân chia thành hai kiểu: nhân vật
nam, nhân vật nữ. Ngoài đặc điềm giới tính, hai kiểu nhân vật này cũng ẩn
chứa những cách nhìn khác nhau, những quan niệm khác nhau.
Ngoài những nhân vật là người lính trở về sống cuộc sống nhiều bất
trắc sau chiến tranh, đa phần nhân vật nam trong tác phẩm Đức Ban đều có
cuộc sống khá sung túc. Họ có khi là quan chức (Nghiêm Hoàn trong Chuyện
72
quanh quán cây dừa, ông Nghi trong cô Tề làng tôi), là chủ tịch xã (trong Cô
Tề làng tôi, Người đàn bà choàng khăn, Miếu làng). Tái dựng nhân vật nam
trong tác phẩm, Đức Ban đã chuyển tải quan niệm về người đàn ông trong đời
sống. Đó là những người cầm trịch cuộc sống gia đình, có quyền uy, thậm chí
cả quyền ép buộc, bắt bớ. Cha của Tịnh bắt ép Tịnh lây Hưng, rồi Hưng đã
bắt ép Tịnh “ăn theo” cuộc đời mình và rồi thành quan to anh ta chủ động li dị
(Sông nước). Cha của “chị” cũng đã bắt ép Anh thành kẻ thân tàn ma dại, bỏ
cả xứ sở mà đi, bắt “chị” phải lấy người trên huyện, do đó mà “chị” và anh
cuối cùng thành hai người lớn tuổi cô đơn, đau khổ, đầy thương tích trong
lòng (Miếu làng). Kể cả Thắng dầu là nhân vật phụ, chỉ xuất hiện qua những
cử chỉ cục mịch, nông nổi đối với chị Nhàn cũng bộc lộ thói gia trưởng trong
ứng xử (Khúc hát ngày xưa).
Khác với nhân vật nam, nhân vật nữ trong tác phẩm Đức Ban đa phần
là những người bất hạnh. Điều đáng nói là nỗi bất hạnh mà họ phải gánh chịu
đa phần do nguyên nhân khách quan mang lại. Họ có khi là những cô gái
hồng nhan bạc mệnh, nạn nhân của thói hám sắc, hám danh, phụ bạc của
những kẻ đàn ông như người đàn bà điên trong Tiếng đêm, Đêm thức, Bống
trong Mắt giếng; có khi là những người bị cha bắt ép lấy chồng để rồi phải
gánh lấy sự bất trắc trong cuộc sống gia đình, trở thành người bất hạnh như
Tịnh trong Sông nước, chị trong Miếu làng; có khi là nạn nhân của hủ tục,
định kiến như Nợi trong Đền thờ Đức Thánh Mẫu, Bờ trong Người đàn bà
choàng khăn. Một đặc điểm dễ nhận thấy ở nhân vật nữ trong tác phẩm Đức
Ban đó là đa phần họ đều có phẩm hạnh tốt. Họ thường là những người phụ
nữ mộc mạc, thủy chung, mang những giá trị văn hóa đạo đức truyền thống.
Một cô Tịnh nạn nhân của sự ép uổng (cha) và âm mưu (Hưng) đã phải chống
đỡ với những lời trách móc cay độc của Khang sau khi khang trở về, để rồi cô
vừa thụ động trao thân cho Khang vừa như muốn chạy trốn. Một “chị” cũng
là nạn nhân của sự bắt ép phải cô đơn khi gần cuối đời song luôn dặn lòng sẽ
hàn gắn lại với “anh”, ôm ấp mối tình chung thủy để vượt qua thử thách
chông gai… Ở những nhân vật này, theo chúng tôi, phẩm chất “yêu” thiên về
73
thuộc tính truyền thống (gắn với sự tôn trọng, yêu thương, với “tình” (tình
người)) hơn là một khái niệm hiểu theo nghĩa đơn thuần là đôi lứa. Bởi vậy,
đây là một đặc điểm rất đáng chú ý bởi nó phù hợp với tâm tính con người
Việt Nam vốn coi sống với nhau chủ yếu bằng “tình” và “nghĩa”.
Nhân vật nữ trong tác phẩm Đức Ban, qua những bất hạnh mà họ phải
trải qua, chúng ta có thể thấy sự bức ép của “giới thứ nhất” (phụ nữ - giới thứ
hai) đối với họ. Đó có thể là người cha đại diện cho tính gia trưởng, phán
quyết trong gia đình; đó có thể là “quyền” của người chồng trong định đoạt
cuộc sống, bắt ép cách ứng xử của vợ. Thậm chí, tệ bạc hơn, họ còn là nạn
nhân chịu sự lợi dụng, sự ghen ghét vô cớ của những kẻ đàn ông háo sắc,
thèm mùi da thịt. Phượng trong Chuyện vẫn còn phải âm thầm và chấp nhận
hi sinh để cho chồng hoạt động cách mạng, cô bị người ta khinh ghét vô cớ vì
cô trắng trẻo, xinh đẹp, thậm chí còn biến thành công cụ tình dục trong tay
những kẻ vừa ghen ghét vừa thèm muốn cô (Đảo - chủ tịch xã). Thậm chí,
hành động chiếm đoạt Tịnh trên con đò của Khang trong Sông nước cũng là
một hành động chứng tỏ sự bức ép đối với phụ nữ. Nói đúng hơn, ở những tác
phẩm này, nhân vật nữ đôi lúc đã biến thành “món hàng” thích mắt của đàn
ông, bị chiếm đoạt và lợi dụng về tình dục.
Như vậy, qua những phân tích trên đây, có thể thấy, nhà văn Đức Ban
đã xây dựng hai hệ thống nhân vật thuộc hai giới khác nhau với những đặc
điểm có phần trái ngược nhau. Tạo dựng trong tác phẩm những đặc điểm như
vậy, Đức Ban muốn gửi tới độc giả thông điệp về sự mất bình đẳng trong
cuộc sống và bước đầu đặt ra những câu hỏi về bình đẳng giới. Nhân vật
người phụ nữ có khi là nạn nhân của tập tục, của thế lực tinh thần nhưng cũng
có khi là do đặc điểm truyền thống - một thứ vô thức trong tâm khảm, bởi thế
mà họ hiện lên vừa đáng trân trọng vừa rất đáng thương. Phải thoát khỏi sự tù
túng của không gian sống, sự mê muội của tập tục, phải lay thức sự sáng suốt
trong các quyết định… Đó phải chăng là thông điệp của Đức Ban khi xây
dựng hai hệ thống nhân vật này
2.4.2.3. Nhân vật từ góc nhìn nghề nghiệp
74
Nhìn nhân vật từ góc nhìn nghề nghiệp là một góc nhìn mà kết quả
đem đến sẽ là khá đa dạng. Bởi lẽ, trong cuộc sống không ai có thể khái quát
đầy đủ về nghề nghiệp, trong tác phẩm văn chương, đôi lúc nhà văn cũng
không thể nắm bắt hết nghề nghiệp của nhân vật dù vô tình hay cố ý. Đối với
truyện ngắn Đức Ban qua khảo sát, chúng tôi thấy, nhân vật xét từ góc độ
nghề nghiệp có các kiểu nhân vật sau: nhân vật công chức, nhân vật nông dân
và những người lao động (làm ổ khóa, đạp xích lô).
Nhân vật công chức xuất hiện trong tác phẩm Cô Tề làng tôi, Chuyện
quanh quán cây dừa, Sông nước, Khúc hát ngày xưa, Bến tắm, Đền thờ Đức
Thánh mẫu, Hoa bần, Miếu làng, Chuyện vẫn còn… với đầy đủ các nghề từ
lãnh đạo Ty lao động (Nghi), Sở Văn hóa (Nghiêm Hoàn), lãnh đạo xã huyện - tỉnh (Hưng), tới bác sỹ (tôi), nhân viên công ty (tôi), cán bộ chữ thập
đỏ (tôi), lãnh đạo xã (ông Đảo). Đặc điểm nhân vật này có sự phân hóa rõ nét.
Theo chúng tôi, nhân vật này có hai kiểu: kiểu nhân vật xưng tôi và kiểu
nhân vật không xưng tôi. Mặc dầu đều có đặc điểm chung là có sống khá giả,
tách biệt khỏi chốn chân quê, song về tính cách mỗi kiểu nhân vật lại mang
một kiểu. Nhân vật có tên tuổi cụ thể (ông Nghi, ông Nghiêm Hoàn, Hưng,
ông Đảo…) có tính cách mạnh bạo, sẵn sàng giở thủ đoạn, dùng quyền uy để
có được cái mình cần, thường thì địa vị, chức tước. Ông Nghi, Nghiêm Hoàn,
Hưng đều dùng mánh khóe, thủ đoạn để thăng tiến, thậm chí đạp đổ cả đồng
nghiệp, đồng đội của mình (Nghiêm Hoàn, ông Nghi). Nhân vật xưng “tôi”
ngược lại mang nặng nghĩa tình, chung thủy, luôn cảm thấy mang nợ với quê
hương, con người mà mình một thời gắn bó mặc dù những nơi đó, con người
đó mình đã cách xa hàng chục năm trời. “Tôi” trong Đền thờ Đức Thánh Mẫu
tìm về với làng quê để mong muốn gặp Nợi - cô gái suốt cuộc đời mang
thương tích thân thể và tâm hồn vì thói mê tín, dị đoan và cũng là tìm về với
kỷ niệm một thời - ngày hai đứa còn tuổi chăn trâu ngây thơ, trong sáng.
“Tôi” trong Hoa bần tìm về với bến sông xưa nơi ông Trìu là nạn nhân của
thói hách dịch của dòng quan lại nhà mình (ông, cha) như là tìm lại chính
mình, bù đắp một cái gì đó không rõ ràng trong tâm khảm…
75