1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Thạc sĩ - Cao học >

Non quê ngày nọ chiêm bao thấy

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.71 KB, 48 trang )


Khoá luận tốt nghiệp



Sinh viên: Phạm Thị Thành



một thêm sâu sắc, thêm day dứt. Nhớ quê là ông thấy trăn trở, dằn vặt vì

cha làm đợc gì cho quê nhà, cho đất nớc.

Quốc phú binh cờng chăng có trớc

Bằng tôi nào thuở ích chng dân

(Trần tình - bài 1)

Thời thế đã đổi thay nhng tấm lòng cô trung của ông vẫn không hề

thay đổi. Đứng ở thực tại, không chấp nhận đợc lối sống" khom lng chùn

gối" ẩn sĩ đành phải đi tìm sự thăng bằng cho tinh thần. Bởi thế, có thể

nói quê cũ là quá khứ, là thời hoàng kim sôi nổi mà ông đã từng cùng Lê

Lợi và nghĩa quân trải qua trong cuộc kháng chiến chống quân Minh.

Ngời ẩn sĩ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi đã tìm về quê cũ, tìm về quá khứ

với những gì tốt đẹp thịnh vợng. Thực tại càng nghiệt ngã thối nát thì ớc

mong đó càng mãnh liệt và càng chứa đựng nhiều nỗi niềm u ẩn. Nhiều

khi ông nh muốn phó mặc tất cả, thây kệ mọi sự để trở về quê. Có lúc

ông đã cao hứng nói về quê cũ của mình trong cái "kiêu" của một con

ngời bất cần đời, sẵn sàng "đoạn tuyệt" chốn quan trờng, chính sự để giữ

cái khí tiết "mai cốt cách , tuyết tinh thần" của mình:

Quê cũ nhà ta thiếu cuả nào,

Rau trong nội,cá trong ao.

Cách song, mai tỉnh hồn Cô Dịch,

Kề nớc, cầm da tiếng Cửa Cao.

Khách đến vờn còn hoa lạc,

Thơ nên cửa thấy nguyệt vào.

Cảnh thanh nhờng ấy chăng về nghỉ?

Lẩn thẩn làm chi áng mận đào?

(Mạn thuật - bài 13)

Nhng con ngời của ẩn sĩ không dễ dàng chấp nhận chữ nhàn nh

những ngời ở ẩn khác. Đặt mình vào thế "an bần lạc đạo, độc thiện kì



26



Khoá luận tốt nghiệp



Sinh viên: Phạm Thị Thành



thân", "minh triết bảo thân" với ông là một việc làm khó khăn hơn cả.

Điều này thể hiện ý thức tự khẳng định không thoả hiệp với thói phàm. ý

thức này quyện chặt với ý thức nghĩa vụ, quyện chặt với quan niệm con

ngời rất sâu sắc của Nguyễn Trãi là con ngời "hữu tài thời hữu dụng", mà

vô dụng là vô nghĩa. Ông nói :

Vận trị cùng loàn chỉn mặc thì,

Bằng ta sinh uổng có làm chi!

Ơn vua luống nhiều lần đội,

Việc nớc nào ích mấy bề!

(Tự thán- bài 30)

"Chữ nhàn có thể làm cho ông hoà nhập với cỏ cây, vô danh, vô ký, vô

ngã, êm đềm nhng lại đặt ông vào thế vô dụng! Mong đợc "đại dụng"

mới là lý tởng lớn của cá nhân ông. Mà đã mong đại dụng thì không dứt

hẳn đợc với công đức, không muốn nát với cỏ cây. Và thế là lại sa vào lới

trần"[9; tr 727]

2.2.2. Hình ảnh vua qua hồi cố của ẩn sĩ.

Trong tâm sự hồi cố của mình, ngời ẩn sĩ đã dành riêng cho vua

những tình cảm đặc biệt, nặng nợ không muốn rời. Quy ẩn nhng có khi

nào tâm hồn ông đợc thanh thản, thoải mái. Ngời ta về ở ẩn quên hết mọi

sự trên đời, chỉ biết bầu bạn với thiên nhiên, cỏ cây, sông nớc; lấy sự tĩnh

tâm tĩnh tại làm đầu để luôn tìm thấy sự thanh thản trong tâm hồn. Con

ngời ẩn dật trong thơ Nguyễn Trãi thì không có sự thanh thản mà luôn

canh cánh một nỗi tiên u, luôn nhắc đến trách nhiệm của "kẻ t văn", "ngời quân tử ","đọc sách , thông đòi nghĩa sách". Nỗi lo ấy lúc nào cũng

thôi thúc, không yên. Nó liên tiếp nh sóng vỗ mạn thuyền, dạt dào, dữ

dội, suốt "đêm ngày cuồn cuộn nớc triều đông". Về ở ẩn rồi mà hình ảnh

của vua vẫn nh hiện rõ trong tấc lòng và tâm trí. Trong ức Trai thi tập,

ẩn sĩ đã nhớ đến Lê Lợi với một niềm tự hào, thán phục. Đó là thời kì đắc



27



Khoá luận tốt nghiệp



Sinh viên: Phạm Thị Thành



ý của Nguyễn Trãi . Ông đợc cùng Lê Lợi bàn bạc việc quân, bàn mu

tính kế để chiến thắng quân Minh. Lúc này, hình ảnh vị minh chủ Lê lợi

đang còn hiện lên với những ánh hào quang rạng rỡ của lòng nhân nghĩa,

chí anh hùng. Ông từng so sánh Lê Lợi với "rồng thần":

Lam Sơn tự tích ngoạ thần long

Thế sự huyền tri tại chởng trung

( Rồng thần từ xa nằm ở Lam Sơn

Việc đời đã biết trớc nh nắm trong tay)

(Đề kiếm)

Về sau, khi đã lên ngôi vua, Lê Lợi nghe lời xúc xiểm, dèm pha

của bọn gian thần đã bạc đãi nhiều trung thần có công với nớc, ngay cả

Nguyễn Trãi cũng không là ngoại lệ. Vì vậy mà trong thơ ông in đậm

một nỗi buồn:

Hào kiệt công danh thử địa tằng

Vãng sự hồi đầu ta dĩ hĩ

Lâm lu phủ ảnh ý nan thăng

(Hào kiệt lập công danh đất ấy từng là nơi

Quay đầy xem việc cũ ôi xong rồi

Cúi xuống dòng mò bóng ý khôn nói xiết )

(Bạch Đằng hải khẩu)

Ngời ẩn sĩ ấy luôn thấy day dứt, dằn vặt khi nghĩ mình không tròn

bổn phận bề tôi trung:

Quân thân nhất niệm cửu anh hoài

Giản quý, lâm tàm, túc nguyện quai

(Hai chữ quân thân canh cánh lòng

Suối rừng hổ thẹn nợ cha xong)

(Đề Đông Sơn tự)



28



Khoá luận tốt nghiệp



Sinh viên: Phạm Thị Thành



Còn trong Quốc âm thi tập thì hình ảnh vua hiện lên thờng xuyên

nh một nỗi ám ảnh trong tâm trí ẩn sĩ

Quân thân cha báo lòng canh cánh

Tình phụ cơm trời áo cha

(Ngôn chi- bài 7)

Tơ hào cha báo hãy còn âu

(Mạn thuật - bài 8)

Ông có thể bỏ qua tất cả. Nhng cái t tởng trung quân ái quốc đã ăn

sâu bén rễ trong con ngời của ông khiến ông phải thốt lên:

Nhân gian mọi sự đều nguôi cả

Một sự quân thân chẳng khứng nguôi

(Tự thán -bài 36)

Chữ học ngày xa quên hết dạng

Chẳng quên có một chữ cơng thờng

(Tự thán- bài 12)

Những câu thơ trên có sự đối ngẫu rất chỉnh. Nó vừa thể hiện sự

đau đớn xót xa bế tắc của một con ngời luôn dùng dằng cả hai lẽ xuất- xử

; nhng nó cũng thể hiện rõ trong đó niềm tự hào của một trung thần luôn

luôn mang trong mình trách nhiệm với dân với nớc,đặc biệt là tấm lòng

với vua, nỗi khổ ấy càng đợc ý thức sâu sắc bao nhiêu, càng đau đớn bao

nhiêu thì càng có giá trị bấy nhiêu. Bởi lịch sử và mọi thế hệ con cháu đất

Việt sau này khi nhìn vào nỗi đau ấy sẽ càng thấy thấm thía tự hào về ngời anh hùng Nguyễn Trãi.

Tấm lòng kẻ ẩn dật mà đợc nh Nguyễn Trãi thì thật là hiếm thấy xa nay. Tấm lòng tôi trung ấy cứ vằng vặc sáng nh sao Khuê trên bầu trời

không gì che khuất nổi. ở nơi thôn quê thanh bạch ấy, tởng chừng ngời

ẩn sĩ có thể khuây khoả và vui với cảnh điền viên. Nhng, không! Tấm

lòng ông luôn hớng về "cửa ngọc". Nơi ấy dù xa xôi cách trở, mây khói



29



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

×