1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Thạc sĩ - Cao học >

Kín tiễn mùi hương dễ động người

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (284.71 KB, 48 trang )


Khoá luận tốt nghiệp



Sinh viên: Phạm Thị Thành



Đờng hoa, vớng vít trúc luồn.

Cửa sông dãi, xâm hơi nắng,

Tiếng vợn kêu, vang cách non.

Cây rợp tán che am mát,

Hồ thanh nguyệt hiện bóng tròn.

Cò nằm, hạc đậu nên bầy bạn,

ủ ấp cùng ta làm cái con.

(Ngôn chí- bài 20)

Có khi rất tình tứ, phong lu:

Tình th một bức phong còn kín

Gió nơi đâu gợng mở xem

(Ba tiêu)

Nớc biếc non xanh thuyền gối bãi

Đêm thanh nguyệt bạc khách lên lầu!

( Bảo kính cảnh giới- bài 26)

"Cảnh vật thiên nhiên nhờ ông trở nên có tình tứ, có ý, có cá tính,

có tâm t, khi kín đáo, khi sôi nổi, lúc trìu mến, lúc mỉa mai; nhng tất cả,

tất cả nh chủ nhân của chúng, đều trong trắng, cao khiết, trung hậu, hiền

hoà; tất cả đều bừng sáng lên, niềm nở lên; tất cả đều nh đủ dịu dàng, đủ

đằm thắm để hứng đón, để nâng niu, để vỗ về, an ủi những tâm hồn đau

khổ đang bị những lực lợng quái ác dày vò!



[ 9; tr 650]



3.3. Thiên nhiên qua tâm sự của ẩn sĩ.

Trớc cuộc sống rối ren, đảo điên ấy,ẩn sĩ có thực sự an phận thủ

thờng trở về yên vui với cảnh an nhàn? Ông đã có những câu thơ nh một

niềm tin vào định mệnh:



39



Khoá luận tốt nghiệp



Sinh viên: Phạm Thị Thành



ở chớ nề hay học cổ nhân,

Lánh mình cho khỏi áng phong trần.

Chim kêu, cá lội yên đòi phận,

Câu quạnh cày nhàn dõng mỗ thân.

(Mạn thuật -bài 7)

Thậm chí đã có lúc ông tỏ thái độ bất mãn, coi thờng cuộc đời,

sẵn sàng từ bỏ mọi danh lợi:

Dù bụt, dù tiên, ai kẻ hỏi

Ông này đã có thú ông này

(Mạn thuật -bài 6)

Ông đã muốn nghỉ vì đã chán nản cảnh sống bon chen danh lợi và

có chút gì nh đã thoả mãn ( nhng thực ra chỉ là bề ngoài thôi!):

Hễ kẻ làm quan đã có duyên,

Tới lui mặc phận tự nhiên.

Thân xa hơng hoả chăng còn ớc,

Chí cũ công danh đã phỉ nguyền.

Trẻ hoà sang, ấy phúc,

Già đợc trọn, là tiên.

(Thuật hứng- bài 8)

Nhng thực ra ngời ẩn sĩ ấy vẫn còn vơng vấn lắm. Ông không phải

là ngời dễ dàng từ bỏ mọi sự để sống thoải mái ích kỉ cho riêng bản thân

mình. Thái độ của ông tỏ ra là thái độ tự nhiên của một ẩn sĩ đã chán chờng cuộc sống ồn ào, mệt mỏi của trờng đua chen lợi lộc, địa vị:

- Gội tục trà thờng pha nớc tuyết,

Tầm thanh trong vắt tiễn chè mai.

Chim kêu hoa nở ngày xuân tĩnh,

Hơng lọn cờ tan tiệc khách thôi.

(Ngôn chí- bài 1)



40



Khoá luận tốt nghiệp



Sinh viên: Phạm Thị Thành



-Say minh nguyệt, chè ba chén,

Dịch thanh phong, lều một gian.

(Mạn thuật- bài 5)

ẩn chứa bên trong con ngời tởng chừng có thể hoà mình vào thiên

nhiên để quên đi mọi sự ấy là cả một tấm lòng luôn giằng xé, nhức

nhối."Nguyễn Trãi không tìm về Côn Sơn với một giấc mơ hái thuốc trờng sinh, hoặc một giấc mơ Từ Thức nào khác. Mặc dù có nhiều chỗ thơ

ông ngợi ca thú ẩn dật, khiến nhiều ngời không hiểu hết tâm sự của ông,

nhng đấy chính là lúc ông biểu lộ nỗi lo âu sâu xa nhất về việc nớc, việc

đời" [9; tr 510].Vì vậy mà ta phải hiểu rằng ngời ẩn sĩ trong Quốc âm thi

tập không hề có ý định về Côn Sơn"tìm tiên để nộp ấn phong hầu".

Trong thơ Nôm Nguyễn Trãi thời kỳ này luôn xuất hiện hình ảnh

đối lập của hai thế giới, đồng thời lý giải sự lựa chọn"hoặc ở- hoặc về"

của ông, sự lựa chọn giữa danh lợi và tự do, giữa đời quan và đời dân,

giữa ảo hoá và minh triết, để sau cùng là một quyết định"đổi đất" theo

đúng chữ của ông("đổi đất xong thì có khác nào"- bài 122). Thực chất

cuộc sống gọi là "ẩn dật" của Nguyễn Trãi ở Côn Sơn là vậy; nó không

phải là từ bỏ cuộc đời để về núi nhẹ nhõm nh kiểu treo ấn từ quan thờng

thấy ở các nhà Nho. Đây là mâu thuẫn rất khó diễn tả trong tâm trạng

Nguyễn Trãi. Khi ông nghĩ là cần phải khớc từ cái xã hội đang thoái hoá

về chính trị và đạo đức kia thì nó cứ đeo đẳng trong ông biết bao lo âu,

suy nghĩ, chẳng hạn nỗi lo về một triều đại đã vắng bóng ngời trung

chính "nớc chẳng còn có Sử Ng" (bài 36); khi ông tự nhủ phải quên đi thì

mọi việc dờng nh lại tập trung ùa đến trong tâm trí. Đó gọi là căn bệnh

bất trị của ý thức mà những ngời nặng nợ, quên mình vì nớc vì dân hay

mắc phải. Do đó, ngời ta hiểu vì sao cõi đời đầy bụi đáng ghét và đáng sợ

nọ lại cứ nặng nề hắt bóng xuống thế giới trong sáng và tơi đẹp của thiên

nhiên trong thơ Nguyễn Trãi.



41



Khoá luận tốt nghiệp



Sinh viên: Phạm Thị Thành



Từ sự lý giải trên đây, ta có thể nhận định: Thiên nhiên trong cảm

nhận của ẩn sĩ sẽ khác với những nhà nho khác đơng thời. Vậy nó khác

nh thế nào? Ta cùng tìm hiểu để thấy những tâm sự của ông khi ẩn giấu

trong thiên nhiên tạo vật.

3.3.1. Một thiên nhiên dân dã, đời thờng.

ẩn sĩ trong thơ Nguyễn Trãi đã hoà mình vào thú vui cảnh vật

thôn dã nên có sự gần gũi, gắn bó thân thiết rất tự nhiên không một chút

gợng gạo. Qua thơ ông, chúng ta thấy hiện lên một hệ thống những loại

cây, rau quả... quen thuộc với đời sống của nhân dân lao động:

Vun đất ải, luống mồng tơi

(Ngôn chí- bài9)

Ao quan thả gửi hai bè muống

Đất bụt ơng nhờ một lảnh mùng

(Thuật hứng - bài 23)

Ao cạn vớt bèo cấy muống

Đìa thanh phát cỏ ơng sen

(Thuật hứng- bài 24)

Một cày một cuốc thú nhà quê

áng cúc lan chen vãi đậu kê

(Thuật hứng - bài 3)

Những loại cây nh mồng tơi, dọc mùng, rau muống, đậu, kê...là

những thức ăn bình dị, thờng ngày của ngời nông dân. Không phải ngẫu

nhiên mà một nhà Nho quen chốn quan trờng và ngời tri thức sách vở ảnh

hởng của văn hoá phong kiến Trung Hoa ấy lại có đợc những vần thơ

giàu tính chất dân tộc và nhân văn sâu sắc nh vậy. Phải thực sự là một

con ngời yêu và gắn bó sâu nặng với nhân dân mới có thể có những vần

thơ nhẹ nhàng, thanh thoát nhng chất chứa bao nhiêu tình cảm sâu nặng

bên trong ấy đợc. "Chính xuất phát từ tình cảm dân tộc đẹp đẽ ấy, đề tài



42



Khoá luận tốt nghiệp



Sinh viên: Phạm Thị Thành



thiên nhiên của Nguyễn Trãi có phần nào thoát ly nguồn thi hứng sách

vở ng tiều canh mục, phong hoa tuyết nguyệt, xuân lan thu cúc, trúc tùng

nhạn hạc,...đã bị công thức hoá, ớc lệ hoá để hớng đến những đề tài, hình

tợng thiên nhiên chân thực, sinh động, gần gũi với tâm hồn dân tộc, tạo

nên những bức tranh thiên nhiên đầy chất thơ và chất hiện thực nói

chung" [9 ; tr 695].

Có thể xem bài thơ Thuật hứng 24 là tuyên ngôn của cả tập thơ,

là tuyên ngôn của ngời ẩn sĩ trong thơ Nôm Nguyễn Trãi. ở đó nó vừa có

ớc muốn của một con ngời muốn về ẩn bên thiên nhiên và thú vui quê

nhà vừa có sự lu luyến việc chính sự ; lại đợc thể hiện bằng một tứ thơ

giàu sức truyền cảm lạ kỳ:

Công danh đã dợc hơp về nhàn,

Lành dữ âu chi thế nghị khen.

Ao cạn vớt bèo cấy muống,

Đìa thanh phát cỏ ơng sen.

Kho thu phong nguyệt đầy qua nóc,

Thuyền chở yên hà nặng vạy then.

Bui có một lòng trung lẫn hiếu,

Mài chăng khuyết, nhuộm chăng đen.

3.3.2.Một thiên nhiên mang đầy tâm trạng.

Hoà chung trong dòng thơ thiên nhiên dân dã, đời thờng, giàu

tính chất dân tộc và nhân văn sâu sắc ấy là những dòng thơ thiên nhiên

chất nặng suy t. Những tâm sự của ẩn sĩ trong mối quan hệ với thiên

nhiên có lẽ thấy rõ nhất trong phần "Hoa mộc môn". Những loài cây nh

tùng, cúc, trúc, mai, đào, sen... mà ông miêu tả đã nói lên một cách kín

đáo tâm sự của ông, tấm lòng của ông, con ngời và khí tiết của ông. Viết

về hoa mai, ông miêu tả vẻ đẹp trong trắng của mai với những ngời đẹp

trong lịch sử Trung Hoa :



43



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (48 trang)

×