1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Thạc sĩ - Cao học >

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 170 trang )


Như vậy, thực hiện DHTH sẽ phát huy tối đa sự trưởng thành và phát triển cá nhân

mỗi HS, giúp các em thành công trong vai trò của người chủ gia đình, người công dân,

người lao động tương lai.

Dạy học tích hợp là định hướng về nội dung và phương pháp dạy học, trong đó GV

tổ chức, hướng dẫn để HS biết huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng thuộc nhiều lĩnh

vực khác nhau nhằm giải quyết các nhiệm vụ học tập, thông qua đó hình thành những

kiến thức, kĩ năng mới, phát triển được những năng lực cần thiết, nhất là năng lực giải

quyết vấn đề trong học tập và trong thực tiễn cuộc sống.

1.1.1.3. Tầm quan trọng của tích hợp trong dạy học

- Thứ nhất, do mọi sự vật, hiện tượng trong tự nhiên và xã hội đều ít nhiều có mối

liên hệ với nhau. Nhiều sự vật, hiện tượng có những điểm tương đồng và cùng một

nguồn cội…Để nhận biết và giải quyết các sự vật, hiện tượng ấy, cần huy động tổng

hợp các kiến thức và kĩ năng từ nhiều lĩnh vực khác nhau. Không phải ngẫu nhiên mà

hiện nay đang ngày càng xuất hiện các môn khoa học “liên ngành”.

- Thứ hai, trong quá trình phát triển của khoa học và giáo dục, nhiều kiến thức, kĩ

năng chưa hoặc chưa cần thiết trở thành một môn học trong nhà trường, nhưng lại rất

cần trang bị cho HS để họ có thể đối mặt với những thách thức của cuộc sống. Do đó

cần tích hợp giáo dục các kiến thức và kĩ năng đó thông qua các môn học.

- Thứ ba, do tích hợp mà các kiến thức gần nhau, liên quan với nhau sẽ được nhập

vào cùng một môn học nên số đầu môn học sẽ giảm bớt, tránh được sự trùng lặp không

cần thiết về nội dung giữa các môn học nhằm giảm tải cho HS.

- Thứ tư, khi người GV kết hợp tốt phương pháp DHTH sử dụng các hiện tượng

trong thực tiễn cuộc sống, ngoài giúp HS chủ động, tích cực say mê học tập còn lồng

ghép được các nội dung khác nhau như: bảo vệ môi trường, chăm sóc và bảo vệ sức

khỏe con người thông qua các kiến thức thực tiễn đó. Từ đó giáo dục và đào tạo thế hệ

trẻ phát triển toàn diện về mọi mặt. Đây cũng là hướng đi mà ngành giáo dục nước ta

đang đẩy mạnh trong các năm gần đây.

1.1.1.4. Xu hướng sử dụng tích hợp kiến thức tổng hợp để tiếp cận tri thức trong dạy

học

Xuất phát từ những ưu điểm của dạy học tích hợp liên môn, tôi nhận thấy, DHTH

liên môn là cần thiết, nó là xu hướng của lý luận dạy học và đã được nhiều nước trên

thế giới thực hiện.

Hầu hết các nước trong khu vực Đông Nam Á đã thực hiện quan điểm tích hợp trong



5



dạy học ở những mức độ nhất định. Trong những năn 70 và 80 vủa thế kỷ XX,

UNESCO đã có những hội thảo với các báo cáo về việc thực hiện quan điểm tích hợp

trong dạy học của các nước tới dự. Khi xây dựng chương trình giáo dục phổ thông, xu

hướng chung của các nước trên thế giới hiện nay là tăng cường tích hợp, đặc biệt ở cấp

tiểu học và THCS. Theo thống kê của UNESCO (từ năm 1960 – 1974) có 208/ 392

chương trình môn Khoa học trong chương trình giáo dục phổ thông các nước thể hiện

quan điểm tích hợp ở các mức độ khác nhau. Một nghiên cứu mới đây của Viện Khoa

học giáo dục Việt Nam về chương trình giáo dục phổ thông 20 nước cho thấy 100%

các nước đều xây dựng chương trình theo hướng tích hợp.

Ở Tiểu học về cơ bản đã quán triệt tinh thần tích hợp trong quá trình xây dựng

chương trình, chẳng hạn môn Tìm hiểu tự nhiên và xã hội ở các lớp 1, 2, 3; môn Khoa

học, Lịch sử và Địa lí ở các lớp 4,5. Ở THCS và THPT đã thực hiện tích hợp các nội

dung trong từng môn học, ví dụ: tích hợp các phân môn thuộc nội môn như: Hóa học

hữu cơ và Hóa học vô cơ, giữa lý thuyết với thực nghiệm trong môn Hóa học. Cơ học,

Điện, Nhiệt học và Quang học trong môn Vật lí. Đại số, Hình học, Lượng giác trong

môn Toán. Địa lí tự nhiên và Địa lí kinh tế-xã hội trong môn Địa lí. Tiếng Việt, Văn

học và Tập làm văn trong môn Ngữ Văn. Tích hợp các nội dung giáo dục về năng

lượng, biến đổi khí hậu, kĩ năng sống, dân số, sức khỏe sinh sản vào nhiều môn học

khác nhau.

1.1.2. Các hoạt động tích hợp cơ bản trong dạy học

1.1.2.1. Tích hợp đa môn

Tiếp cận tích hợp đa môn tập trung trước hết vào các môn học. Các môn liên quan

với nhau có chung một định hướng về nội dung và phương pháp dạy học nhưng mỗi

môn lại có một chương trình riêng. Tích hợp đa môn được thực hiện theo cách tổ chức

các “chuẩn” từ các môn học xoay quanh một chủ đề, đề tài, dự án, tạo điều kiện cho

người học vận dụng tổng hợp kiến thức của các môn học có liên quan.

1.1.2.2. Tích hợp liên môn

Theo cách tiếp cận tích hợp liên môn, GV tổ chức chương trình học tập xoay quanh

các nội dung học tập chung: các chủ đề, các khái niệm và kĩ năng liên ngành, liên môn.

Tích hợp liên môn còn được hiểu như là phương án, trong đó nhiều môn học liên

quan được kết lại thành một môn học mới với hệ thống những chủ đề nhất định xuyên

suốt qua nhiều cấp lớp. Ví dụ: Địa lí, Lịch sử, Sinh học, Xã hội, Giáo dục công dân,

Hoá học, Vật lí, Địa lí được tích hợp thành môn “Nghiên cứu xã hội và môi trường” tại



6



Anh, Australia, Singapore, Thái Lan.

1.1.2.3. Tích hợp xuyên môn

Trong cách tiếp cận tích hợp xuyên môn, GV tổ chức chương trình học tập xoay

quanh các vấn đề và quan tâm của người học. HS phát triển kĩ năng sống khi áp dụng

các kĩ năng môn học và liên môn vào ngữ cảnh thực tế. Hai con đường dẫn đến tích

hợp xuyên môn là học tập theo dự án và thương lượng chương trình học.

1.1.2.4. Tích hợp nội môn

Khi tiếp cận tích hợp nội môn, GV cố gắng gắn kết, đảm bảo tính đồng bộ giữa các

nội dung có liên quan của các phân môn trong một môn học, ví dụ: tích hợp phân môn

hóa hữu cơ và vô cơ, vô cơ, hữu cơ với hóa pân tích hay điện hóa... hoặc lồng ghép các

vấn đề cần thiết nhưng không thành môn học như các nội dung giữa lý thuyết với thực

hành, giữa lý thuyết với thực tiễn, như vấn đề về môi trường, năng lượng, biến đổi khí

hậu, kĩ năng sống, dân số, sức khỏe sinh sản… vào nội dung của mỗi bài dạy.

1.2. Mối quan hệ giữa Hóa học và các bộ môn khoa học tự nhiên khác

Trong vài chục năm gần đây, lí luận dạy học đã phát hiện ra hiện tượng thiếu mối

liên hệ giữa các môn học ở trường THPT. Những hiểu biết về cùng một loại hiện tượng

của tự nhiên, nhưng do nhiều môn học truyền thụ, đã không có liên hệ chặt chẽ với

nhau trong quá trình dạy học. Vì thế những hiểu biết về tự nhiên của học sinh tản mạn,

rời rạc, không toàn diện. Lí luận dạy học đã đề ra yêu cầu phải đảm bảo cho được mối

liên hệ giữa các bộ môn hay còn gọi là mối liên hệ liên môn, coi đó là điều kiện sư

phạm để nâng cao chất lượng dạy học ở trường phổ thông.

Mối liên hệ liên môn của Hoá học với các môn học khác là sự phản ánh mối liên hệ

tác động qua lại của Hoá học với các khoa học tự nhiên vào trong nội dung và phương

pháp dạy học của Hoá học nhằm đảm bảo hình thành những hiểu biết nhất quán và toàn

diện về tự nhiên, đồng thời cũng hình thành cả thế giới quan duy vật biện chứng nhất

quán cho HS. Con đường thực hiện mối liên hệ giữa các môn trong quá trình dạy học

nói chung, trong dạy học Hoá học, Vật lí, Sinh học và Địa lí nói riêng, có hiệu quả sư

phạm thiết thực, to lớn. Nó không chỉ giúp tiết kiệm thời gian, sức lực của GV và HS

mà còn có tác dụng kích thích hứng thú học tập, tăng cường khả năng tư duy, hoạt

động độc lập sáng tạo của HS, giúp cho việc giáo dục chủ nghĩa duy vật biện chứng,

kết quả là nâng cao chất lượng học tập, nâng cao hiệu quả của quá trình dạy học.

Những mối liên hệ liên môn giữa Hoá học, Vật lí và Sinh học có vai trò đặc biệt

quan trọng trong các mối liên hệ liên môn của Hoá học với các môn học khác.



7



Chẳng hạn, trong chương trình Vật lí và Hoá học đều đề cập tới kiến thức về hiện

tượng vật lí, khái niệm về phân tử, định luật bảo toàn khối lượng và năng lượng, các

thuyết cấu tạo chất…trong đó kiến thức về cấu tạo chất được coi là một trong những

trục chính của chương trình. Khái niệm về cấu tạo chất trong nhà trường THCS có thể

được hình thành theo một số giai đoạn:

Trước hết khái niệm cấu tạo chất được hình thành ở sách Vật lí lớp 7. Ở SGK mới

lớp 7, trong phần Điện học của sách Vật lí, có đề cập đến một số luận điểm về cấu tạo

nguyên tử và phân tử. Nguyên tử có cấu tạo phức tạp, nó gồm có hạt nhân mang điện

dương và các electron mang điện âm, nguyên tử trung hoà về điện.

Giai đoạn tiếp theo của sự hình thành khái niệm cấu tạo được bắt đầu ở sách Hoá học

lớp 8 và sau đó được tiếp tục cả trong sách Vật lí lớp 8 ở phần Nhiệt học. Các luận

điểm này sẽ được nhắc tới và phát triển thêm trong sách Hoá học lớp 10. Những kiến

thức về cấu tạo nguyên tử ở Hoá học lớp 10 sẽ được mở rộng thêm trong phần Vật lí

nguyên tử và hạt nhân. Trong quá trình hình thành khái niệm về cấu tạo chất, khái niệm

phân tử và thuyết nguyên tử phân tử được trình bày trong sách Vật lí với mục đích đi

sâu vào nghiên cứu các hiện tượng nhiệt, cấu tạo chất rắn, tức là nghiên cứu quá trình

không có sự biến đổi chất này thành chất khác, còn trong sách Hoá học, kiến thức về

phân tử, nguyên tử được nghiên cứu với mục đích đi sâu vào giải thích bản chất hiện

tượng hoá học, các quá trình xảy ra với sự biến đổi phân tử chất này thành phân tử các

chất mới. Tuy mục đích riêng của mỗi bộ môn là khác nhau, nhưng cả hai giáo trình

đều có mục đích chung là trang bị kiến thức về cấu tạo chất cho HS. Các kiến thức đó

được hình thành, mở rộng và củng cố một cách xen kẽ kế tiếp nhau qua hai giáo trình

Vật lí và Hoá học.

Hoá học không phải chỉ có mối liên hệ qua lại với Vật lí mà còn có liên hệ liên môn

với Sinh học, Toán học và Địa lí nữa. Tuy rằng chương trình môn học được xây dựng

năm 1989 đã có những chú ý bước đầu đến các mối liên hệ liên môn nhưng chương

trình các môn học tự nhiên của trường THCS còn có những nhược điểm về mặt này

cần được khắc phục. Chương trình mới trường THCS được xây dựng năm 2002 đã chú

ý tăng cường mối liên hệ liên bộ môn giữa Hoá học với Vật lí và Sinh học. Dự thảo

chương trình giáo dục phổ thông tổng thể (8/2015) đã định hướng rất rõ từ quan điểm

xây dựng chương trình, mục tiêu, yêu cầu, kế hoạch tổng thể đến định hướng xây dựng

chương trình các môn học. Trong đó đã xây dựng kế hoạch khung cho hai môn học tích

hợp liên môn đó là môn Khoa học tự nhiên (Vật lí, Hóa học, Sinh học) và môn Khoa



8



học xã hội (Ngữ văn, Lịch sử, Địa lí).

1.2.1. Hóa học

Hóa học, một nhánh của khoa học tự nhiên, là ngành nghiên cứu về thành phần, cấu

trúc, tính chất, và sự thay đổi của vật chất. Hóa học nghiên cứu về tính chất của

các nguyên tố và hợp chất, về các biến đổi có thể có từ một chất này sang một chất

khác, tiên đoán trước tính chất của những hợp chất chưa biết đến cho tới nay, cung cấp

các phương pháp để tổng hợp những hợp chất mới và các phương pháp đo lường hay

phân tích để tìm các thành phần hóa học trong những mẫu thử nghiệm.

Mặc dù tất cả các chất đều được cấu tạo từ khoảng 80 đến 100 nguyên tố trong số

118 nguyên tố được biết đến dù tương đối ít, nhưng sự kết hợp và sắp xếp khác nhau

của các nguyên tố đã mang lại đến vài triệu hợp chất khác nhau, những hợp chất mà đã

tạo nên các loại vật chất khác nhau như: Nước, cát (chất), mô sinh vật và mô thực vật.

Thành phần của các nguyên tố quyết định các tính chất vật lý và hóa học của các chất

và làm cho Hóa học trở thành một bộ môn khoa học rộng lớn.

Tiến bộ trong các chuyên ngành khác nhau của hóa học thường là các điều kiện tiên

quyết không thể thiếu cho những nhận thức mới trong các bộ môn khoa học khác, đặc

biệt là trong các lĩnh vực của sinh học và y học, cũng như trong lĩnh vực của Vật lí (Ví

dụ như việc chế tạo các chất siêu dẫn mới). Hóa sinh, một chuyên ngành rộng lớn, đã

được thành lập tại nơi giao tiếp giữa Hóa học và Sinh vật học và là một chuyên ngành

không thể thiếu được khi muốn hiểu về các quá trình trong sự sống, các quá trình mà

có liên hệ trực tiếp và không thể tách rời được với sự biến đổi chất.

Đối với y học thì Hóa học không thể thiếu được trong cuộc tìm kiếm những thuốc trị

bệnh mới và trong việc sản xuất các dược phẩm. Các kỹ sư thường tìm kiếm vật liệu

chuyên dùng tùy theo ứng dụng (vật liệu nhẹ trong chế tạo máy bay, vật liệu xây

dựng chịu lực và bền vững, các chất bán dẫn đặc biệt tinh khiết...). Ở đây bộ môn khoa

học vật liệu đã phát triển như là nơi giao tiếp giữa Hóa học và Kỹ thuật.

Chúng ta đang sống trong môi trường tự nhiên, chịu tác động vô vàn các hiện tượng

tự nhiên và cũng đã vận dụng các hiện tượng đó phục vụ cho đời sống hằng ngày.

Xung quanh chúng ta là các vật chất. Các vật chất đó không tự sinh ra và cũng không

tự mất đi mà chúng được chuyển hóa từ dạng này sang dạng khác nhờ các phản ứng

hóa học.

1.2.2. Sinh học

Sinh học hay là Sinh vật học là một môn khoa học về sự sống (từ tiếng Anh: biology



9



bắt nguồn từ Hy Lạp với bios là sự sống, và logos là môn học). Nó là một nhánh

của khoa học tự nhiên, tập trung nghiên cứu các cá thể sống, mối quan hệ giữa chúng

với nhau và với môi trường. Nó miêu tả những đặc điểm và tập tính của sinh vật (ví dụ:

cấu trúc, chức năng, sự phát triển, môi trường sống), cách thức các cá thể và loài tồn tại

(ví dụ: nguồn gốc, sự tiến hóa và phân bổ của chúng). Nghiên cứu về hóa cơ bản của sự

sống, molecular biology nghiên cứu các tương tác phức tạp giữa các hệ thống của các

phân tử sinh học, cellular biology tìm hiểu các cấu trúc cơ bản tạo thành mọi sự sống.

Như vậy, sự sống ở mức độ nguyên tử và phân tử được nghiên cứu thông qua sinh

học phân tử, hóa sinh và di truyền phân tử. Ở mức độ tế bào, nó được hiểu biết thông

qua tế bào học và mức độ đa bào thì thông qua physiology, giải phẫu học và mô

học. Sinh học phát triển nghiên cứu sự sống ở các giai đoạn phát triển khác nhau

hoặc phát triển cá thể (ontogeny) của sinh vật.

Mọi sinh vật sống đều có mối quan hệ với các sinh vật khác và môi trường của

chúng. Một trong những nguyên nhân dẫn tới sự phức tạp khi nghiên cứu các hệ thống

Sinh học là do mối tương tác phức tạp này.

1.2.3. Vật lí

Vật lí học là ngành khoa học nghiên cứu về các quy luật vận động của tự nhiên, từ

thang vi mô (các hạt cấu tạo nên vật chất) cho đến thang vĩ mô (các hành tinh, thiên hà

và vũ trụ). Trong tiếng Anh, từ Vật lí (physics) bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp φύσις

(phusis) có nghĩa là tự nhiên và φυσικός (phusikos) là thuộc về tự nhiên. Đối tượng

nghiên cứu chính của Vật lí hiện nay bao gồm vật chất, năng lượng, không gian và thời

gian.

Vật lí còn được xem là ngành khoa học cơ bản bởi vì các định luật vật lí chi phối tất

cả các ngành khoa học tự nhiên khác. Điều này có nghĩa là những ngành khoa học tự

nhiên như Sinh học, Hóa học, Địa lí học... chỉ nghiên cứu từng phần cụ thể của tự

nhiên và đều phải tuân thủ các định luật vật lí. Ví dụ: tính chất hoá học của các chất

đều bị chi phối bởi các định luật vật lý về cơ học lượng tử, nhiệt động lực học và điện

từ học.

1.2.4. Địa lí

Địa lí học (trong tiếng Hy Lạp γεωγραφία, geographia, nghĩa là "mô tả trái đất. Một

lĩnh vực khoa học nghiên cứu về các vùng đất, địa hình, dân cư và các hiện tượng

trên trái đất. Dịch sát nghĩa sẽ là "nhằm mô tả hoặc viết về Trái đất ". Người đầu tiên

đề cập đến thuật ngữ này là Eratosthenes (276–194 TCN). Bốn lĩnh vực truyền thống



10



nghiên cứu về địa lý là phân tích không gian của tự nhiên và các hiện tượng con người

(như các nghiên cứu về phân bố), nghiên cứu khu vực, nghiên cứu về mối quan hệ con

người và nghiên cứu về Trái đất. Tuy nhiên, Địa lí hiện đại mang tính liên ngành bao

gồm tất cả những hiểu biết trước đây về Trái đất và tất cả những mối quan hệ phức tạp

giữa con con người và tự nhiên. không chỉ đơn thuần là nơi có các đối tượng đó, mà

còn về cách chúng thay đổi và đến được như thế nào. Địa lí đã được gọi là "ngành học

về thế giới" và "cầu nối giữa con người và khoa học tự nhiên như: Vật lí, Sinh học,

Hóa học.

1.3. Dạy học theo định hướng phát triển năng lực

1.3.1. Khái niệm năng lực

Năng lực là những thuộc tính tâm lý riêng của cá nhân, nhờ những thuộc tính này mà

con người hoàn thành tốt đẹp một loạt hoạt động nào đó, mặc dù bỏ ra ít sức lao động

nhưng vẫn đạt kết quả cao.

Năng lực gắn liền với kĩ năng, trong lĩnh vực hoạt động tương ứng. Năng lực chứa

đựng yếu tố mới mẽ, linh hoạt trong hành động, có thể giải quyết thành công nhiều tình

huống khác nhau, trong lĩnh vực hoạt động rộng hơn.

1.3.2. Các năng lực chung

1.3.2.1. Nhóm năng lực làm chủ và phát triển bản thân

* Năng lực tự học

Năng lực tự học được thể hiện qua việc chủ thể tự xác định đúng đắn động cơ học

tập cho mình, có khả năng tự quản lí việc học của mình. Xác định được nhiệm vụ học

tập một cách tự giác, chủ động, tự đặt được mục tiêu học tập để đòi hỏi sự nổ lực phấn

đấu thực hiện. Có thái độ tích cực trong các hoạt động để có thể tự làm việc, điều chỉnh

hoạt động học tập và đánh giá kết quả học tập của chính mình để có thể độc lập làm

việc và làm việc hợp tác với người khác. Lập và thực hiện kế hoạch học tập nghiêm

túc, nề nếp, thực hiện các cách học như: hình thành cách ghi nhớ của bản thân, phân

tích nhiệm vụ học tập để lựa chọn được các nguồn tài liệu đọc phù hợp, các đề mục,

các đoạn bài ở SGK, sách tham khảo, internet. Lưu giữ thông tin có chọn lọc bằng ghi

tóm tắt với đề cương chi tiết, bằng bản đồ khái niệm, bảng, các từ khóa, ghi chú bài

giảng của GV theo các ý chính, tra cứu tài liệu ở thư viện nhà trường theo yêu cầu của

nhiệm vụ học tập.

Mỗi hoạt động bao gồm trong nó nhiều hành động với nhiều cách thức thực hiện

khác nhau. Kĩ năng của một hoạt động nào đó là phức hợp bao gồm nhiều kĩ năng



11



thành phần có quan hệ chặt chẽ với nhau trong cấu trúc của hoạt động.

Kĩ năng tự học là khả năng thực hiện một hệ thống các thao tác tự tổ chức, tự điều

khiển hoạt động tự học trên cơ sở vận dụng các kinh nghiệm có liên quan đến hoạt

động đó.

Kĩ năng tự học là một hệ thống, bao hàm trong nó những kĩ năng chung cho hoạt

động học tập và những kĩ năng chuyên biệt. Có bao nhiêu loại hình học tập thì có bấy

nhiêu loại hình kĩ năng chuyên biệt.

* Năng lực giải quyết vấn đề

Là khả năng của mỗi con người trong việc nhận thức, khám phá được những tình

huống có vấn đề trong học tập và trong cuộc sống mà không có định hướng trước về

kết quả, và tìm ra các giải pháp để giải quyết những vấn đề đặt ra trong tình huống đó,

qua đó thể hiện khả năng tư duy, hợp tác trong việc lựa chọn và quyết định giải pháp

tối ưu.

Với môn Hóa học, năng lực này cũng cần được hướng đến khi triển khai các nội

dung dạy học của bộ môn, do tính ứng dụng thực tiễn và quy trình hình thành năng lực

có thể gắn với các bối cảnh học của môn học, khi nảy sinh những tình huống có vấn đề.

Với một số nội dung dạy học trong môn Hóa học như: mô tả, giải thích, các hiện

tượng... Quá trình giải quyết vấn đề trong môn Hóa học có thể được vận dụng trong

một tình huống dạy học cụ thể hoặc trong một chủ đề dạy học.

* Năng lực tư duy

Việc phát triển tư duy cho HS trước hết là giúp HS thông hiểu kiến thức một cách

sâu sắc, không máy móc, biết cách vận dụng kiến thức vào bài tập và thực hành, giải

quyết vấn đề trong thực tiễn, từ đó mà kiến thức HS thu nhận được trở nên vững chắc

và sinh động. Chỉ thực sự lĩnh hội được tri thức khi tư duy tích cực của bản thân HS

được phát triển và nhờ sự hướng dẫn của GV các em biết phân tích, khái quát tài liệu

có nội dung sự kiện cụ thể và rút ra những kết luận cần thiết.

Tư duy càng phát triển thì càng có nhiều khả năng lĩnh hội tri thức nhanh và sâu sắc,

khả năng vận dụng tri thức linh hoạt và có hiệu quả hơn. Như vậy, sự phát triển tư duy

diễn ra trong quá trình tiếp thu kiến thức và vận dụng tri thức, khi tư duy phát triển sẽ

tạo ra một kĩ năng và thói quen làm việc có suy nghĩ, có phương pháp, chuẩn bị tiềm

lực lâu dài cho HS trong hoạt động sáng tạo sau này.

Muốn phát triển năng lực tư duy, phải xây dựng nội dung dạy học sao cho nó không

phải "thích nghi" với trình độ phát triển có sẵn của HS mà đòi hỏi phải có trình độ phát



12



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (170 trang)

×