Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.57 MB, 325 trang )
Người dịch: Lephan, Letung73, Lesoi, Huyanh, Tuhuynhan, Hùng804
Kimtubinh.net
Từ chú: Âm dương phối hợp, cũng giống như điện từ vậy. Dương gặp dương, âm gặp âm
tất chống lẫn nhau, là Thất sát Kiêu ấn vậy; dương ngộ âm, âm ngộ dương tất hút nhau, là
Tài Quan Ấn vậy. Ấn sanh ta, Tài bị ta khắc, hoặc thiên hoặc chánh, khí thế tuy thuần tạp
có khác, dùng phép trên không khác nhiều lắm. Quan sát khắc ta, hiền ác hồi thù, không
thể không nói đến. Tỷ kiếp, cùng 1 khí, như Thực Thương, được ta sanh ra, tất lại lấy
cùng tính là thuần, khác tính là tạp. Thuần tạp chia riêng ra mà dùng tùy ở cường nhược,
như muốn nghiên cứu mệnh lý phải nên biết rõ.
Nguyên văn: Tức lấy Giáp Ất Canh Tân mà nói thì. Giáp là dương mộc, là sanh khí của
mộc; Ất là âm mộc, là hình chất của mộc. Canh là dương kim, là khí túc sát của mùa thu;
Tân là âm kim, là chất của ngũ kim (vàng, bạc, đồng…). Giáp mộc là sanh khí, gửi ở mộc
mà hành ở thiên, cho nên gặp mùa thu là Quan, trong khi Ất thì ngược lại: Canh là
Quan, Tân là Sát. Lại nói về Bính Đinh Canh Tân thì. Bính là dương hỏa dã, khí lửa sáng
nóng rực bốc tận trời; Đinh là âm hỏa như hỏa của ngọn lửa củi. Khí túc sát mùa thu,
gặp khí lửa sáng nóng thì bị khắc mất nhưng kim loại ta hay dùng thì lại chẳng sợ khí
lửa, nên nói Canh lấy Bính làm Sát, mà Tân thì lấy Bính làm Quan. Những chất kim loại
ta hay dùng, gặp lửa củi thì lập tức tan chảy ra trong khi khí túc sát lại chẳng sợ lửa củi.
Bởi vậy nên Tân lấy Đinh làm Sát mà Canh lấy Đinh làm Quan vậy. Lấy đó mà suy ra, ta
nên biết cho rành cái lẽ tương khắc.
Từ chú: Như luận tóm lại về Quan Sát của hỏa thì nếu lấy hình chất của Ất mộc, Tân là
những chất kim loại ta hay dùng, Đinh là lửa củi, tự vị tận hợp. Thập can tức là ngũ hành,
đều là khí thiên hành vậy. Tựu khí mà phân âm dương, há dựa không có hình chất mà nói
được? Thí dụ như chia con người ra âm dương nam nữ, thì nam cũng chia ra nếu dương
cương thì nóng nảy, âm trầm thì hèn yếu, nữ cũng vậy, tính chất khác nhau. Lấy ví dụ
trên để nói, học giả chớ nên chấp vào sách vở. Ngũ hành nghi kị, toàn là do ở phối hợp
lại, trong khi tứ thời nghi kị, mỗi mùa mỗi khác. Ấy là ghi lại để đời sau biết mà luận ngũ
hành sanh khắc nghi kị.
Phụ luận tứ thời nghi kị (tiết lục "cùng thông bảo giám")
Mộc
Mộc mùa xuân, khí lạnh vẫn còn sót lại, mừng có hỏa sưởi ấm, tất khỏi bị họa bàn khuất;
có thủy giúp đỡ, lấy làm sung sướng tốt đẹp. Nhưng đầu xuân không nên thủy thịnh, mưa
dầm ẩm thấp tất rễ úng mà cành khô; lại chẳng thể không có thủy thì rầu vì dương khí
nhiều bị hạn, rễ khô lá héo. Cần thủy hỏa vừa đủ là đẹp nhất. Thổ nhiều tất tổn lực, thổ
mỏng được tốt tươi. Kị gặp kim nhiều sẽ bị khắc phạt thương tàn; ví như mộc vượng,
được kim tất đẹp.
Mộc mùa hạ, rễ khô lá héo, mong có thủy thịnh, thì thành tư nhuận, cần tránh hỏa vượng
sẽ gặp họa tự cháy hết. Thổ nên mỏng, không nên dày nặng, nặng trở thành tai họa; sợ
nhiều kim nhưng không thể thiếu, thiếu thì không thể chặt bớt cho gọn đẹp lại. Mộc đẹp
trùng trùng chỉ những thành rừng; hoa mọc điệp điệp chẳng kết nổi quả.
Mộc mùa thu, khí dần dần tan tác. Đầu thu hỏa khí chưa hết hẳn, nên mừng có thủy thổ
nuôi lớn thêm; Lữ thu trái cây đã chín, mong được kim cứng để gọt sửa lại. Sau sương
giáng không nên có thủy thịnh, thủy thịnh tất mộc bị trôi; Sau hàn lộ hậu mừng có hỏa
nóng tất mộc kết trái. Mộc thịnh vừa đẹp lại đa tài, thổ dày không gánh nổi tài.
Mộc mùa đông, nằm trong lòng đất, mong thổ nhiều bồi dưỡng, ghét thủy thịnh tất mất
hình. Nhỡ gặp nhiều kim khắc phạt chẳng hại; hỏa trùng hiện, có công hâm nóng lại. Là
21
Người dịch: Lephan, Letung73, Lesoi, Huyanh, Tuhuynhan, Hùng804
Kimtubinh.net
lúc quay về cội, mộc bệnh muốn ỵên nên được giúp đỡ; chỉ sợ gặp đất tử tuyệt mà mong
gặp nơi sanh vượng.
Hỏa
Hỏa mùa xuân, mẹ vượng con tướng, thế lực tịnh hành. Hỉ mộc sanh phò, không nên quá
vượng, vượng tất hỏa viêm; mong thủy vừa đủ, không nên quá nhiều, nhiều tất hỏa diệt.
Thổ nhiều tất làm tối lửa, hỏa thịnh tất táo liệt. Gặp kim có thể thành công, gặp được
nhiều tài phú đều toại.
Hỏa mùa hạ, đang lúc vượng nắm quyền. Gặp thủy chế cũng chẳng sợ bị dập tắt, thêm
mộc trợ chẳng khỏi bị yểu chiết. Gặp kim tất làm nên vật đẹp, được thổ toại thành gặt lúa
(Giá sắc). Có kim thổ tuy tốt đẹp, thiếu thủy tất kim táo thổ tiêu, lại thêm mộc giúp, thế
tất khuynh nguy.
Hỏa mùa thu, hình thể mệt mỏi. Được mộc sanh mừng được sáng trở lại; gặp thủy khắc,
khó tránh bị tổn diệt. Thổ dày thì che mất ánh sáng, kim nhiều tất bị tổn thương. Hỏa gặp
mộc thêm sáng rực, gặp được nhiều càng có lợi.
Hỏa mùa đông, thể tuyệt hình vong. Có mộc sanh mừng được cứu, gặp thủy khắc là tai
ương. Mong có thổ chế thủy thì lành, ỵêu hỏa thêm cùng có lợi. Gặp kim khó gánh nổi
tài, không kim chẳng gặp gian nan.
Thổ
Thổ mùa xuân, thế trơ trọi hư không. Mừng có hỏa sanh phò, ghét mộc thái quá; Kị thủy
tràn ngập lềnh bềnh, mừng có thổ trợ. Được kim chế mộc thì tốt nhưng nhiều kim tất lấy
mất thổ khí.
Thổ mùa hạ, thế táo liệt. Được thủy tư nhuận thành công, kị hỏa nung nướng nứt khét.
Mộc trợ hỏa viêm, sanh khắc chẳng chọn; kim sanh thủy phiếm, thê tài có ích. Gặp tỉ
giúp khốn đọng chẳng thông, như thái quá lại nên có mộc.
Thổ mùa thu, con vượng mẹ suy. Kim nhiều thì hao vì cướp mất khí, mộc thịnh được chế
phục thuần lương. Hỏa nhiều không chán, thủy lềnh bềnh chẳng lành. Tiết sương giáng
không có tỉ kiên giúp sức thì không có phương.
Thổ mùa đông, ngoài rét trong ấm. Thủy vượng tài nhiều, kim nhiều con đẹp. Hỏa thịnh
thì lành, mộc nhiều chẳng xấu. Lại thêm tỉ giúp thì tốt, thân cường mừng thêm được thọ.
Kim
Kim mùa xuân, chưa hết rét, được hỏa khí thì lành; thể yếu tính mềm, mong thổ dày được
giúp. Thủy thịnh thêm rét, mất đi thế phong nhuệ; mộc vượng tổn lực, có cái nguy cùn
nhụt ngu độn. Kim lại giúp phò trì rất hay nhưng nếu thiếu hỏa thì không có lại bất lương.
Kim mùa hạ, càng thêm suy yếu, hình chất chẳng đủ, lo sợ tử tuyệt. Hỏa nhiều chẳng
chán, thủy nhuận thì tốt. Gặp mộc trợ quỷ thương thân, thêm kim phò trì tinh tráng. Thổ
mỏng rất có dụng, thổ dày bị vùi lấp tối tăm.
Kim mùa Thu, nắm lệnh đương quyền. Hỏa đến được nung luyện thỏa lòng thành tài
chung đỉnh; Thổ nhiều bồi dưỡng trở thành ương trọc. Gặp thủy tinh thần sáng láng, gặp
mộc tất chặt vót ra uy. Kim giúp càng cứng hơn, cứng quá sẽ gãy; khí nặng thêm vượng,
vượng cực tất suy.
22
Người dịch: Lephan, Letung73, Lesoi, Huyanh, Tuhuynhan, Hùng804
Kimtubinh.net
Kim mùa đông, hình rét tính lạnh. Mộc nhiều khó chặt đục nổi, thủy thịnh khó tránh nạn
chìm sâu. Thổ chế thủy, kim chẳng rét; hỏa lại sanh thổ, có cả con lẩn mẹ thì thành công.
Mừng Tỷ kiên họp giúp, mong quan ấn dưỡng ấm thì lợi.
Thủy
Thủy mùa xuân, giàn giụa thao dâm. Gặp thêm thủy giúp, thế mạnh lở đê; như thêm thổ
thịnh, hết sợ lềnh bềnh mông mênh. Mừng có kim sanh phò nhưng kim chẳng nên thịnh;
ham thủy hỏa vừa đủ, không nên có hỏa viêm. Gặp mộc có công nhưng thiếu thổ thì sầu
tản mạn.
Thủy mùa hạ, bốc hơi về nguồn, đương lúc vừa cạn, mừng đựơc tỉ chung vai. Mừng kim
sanh trợ giúp, kị hỏa vượng qúa viêm. Mộc thịnh đuợc tiết bớt khí, thổ vượng ngăn dòng
chảy.
Thủy mùa thu, mẹ vượng con tướng. Có kim giúp trong xanh, gặp thổ vượng bị đục bẩn.
Hỏa nhiều tài thịnh, mộc dày thân lành. Gặp thủy trùng trùng thêm lo lềnh bềnh mà bị
giam; Gặp thổ chồng chất, thủy vui thanh bình.
Thủy mùa đông tháng, tư lệnh đương quyền. Gặp hỏa sưởi ấm trừ hàn, gặp thổ tất được
chứa lại. Kim nhiều bất nghĩa, mộc thịnh có tình. Thủy chảy tràn ngập, nhờ thổ phòng đê;
Thổ dầy cao xemg, trở thành vệt nước.
Phụ luận ngũ hành sanh khắc chế hóa nghi kị (lục từ đại thăng)
Kim nhờ thổ sanh, thổ nhiều kim lấp; thổ nhờ hỏa sanh, hỏa nhiều thổ cháy; hỏa nhờ mộc
sanh, mộc nhiều hỏa tắt; mộc nhờ thủy sanh, thủy nhiều mộc trôi; thủy nhờ kim sanh,
kim nhiều thủy đục.
Kim sanh thủy, thủy nhiều kim chìm; thủy sanh mộc, mộc nhiều thủy cạn; mộc sanh hỏa,
hỏa nhiều mộc rụi; hỏa sanh thổ, thổ nhiều hỏa tối; thổ sanh kim, kim nhiều thổ yếu.
Kim khắc mộc, mộc chắc kim mẻ; mộc khắc thổ, thổ dày mộc gảy; thổ khắc thủy, thủy
nhiều thổ trôi; thủy khắc hỏa, hỏa nóng thủy bốc; hỏa khắc kim, kim nhiều hỏa tắt.
Kim suy gặp hỏa, tất bị chảy tan; hỏa nhược gặp thủy, tất bị tắt ngóm; thủy nhược gặp
thổ, tất bị lấp tất; thổ suy gặp mộc, tất bị khuynh hãm; mộc nhược gặp kim, tất bị đốn
gảy.
Cường kim đắc thủy, mới bọc mũi nhọn; cường thủy đắc mộc, mới chảy thong thả;
cường mộc đắc hỏa, mới lộ sang đẹp; cường hỏa đắc thổ, mới gom lửa lại; cường thổ đắc
kim, mới hóa khôn ngoan.
"Cùng thông bảo giám" và “Từ đại thăng” luận ngũ hành sanh khắc cùng tứ giờ nghi kị,
lời tuy ít, lý rất sâu, thí dụ như các phép toán cộng trừ nhân chia tuy sơ học, mà học cao
lên phương trình là fân tích fân, cũng chẵng ngoài lẽ ấy. Muốn biết rõ lẽ màu nhiệm của
mệnh lý, mà chưa nắm rõ lý lẽ tứ giờ ngũ hành, sanh khắc chế hóa, người mới học khó
lòng thông suốt, học hoài thành thạo, tự lĩnh hội được. Ứng dụng không có cùng, biến
hóa khôn luờng, chớ cho là phần này ít lời mà sao nhãng.
Chương 3- Luận âm dương sanh tử
Chương 3. Luận âm dương sanh tử (P1)
Nguyên văn: Thuyết ngũ hành can chi, xem thêm thiên can chi cho rõ. Can động chẳng
nghỉ, chi tĩnh lẽ thường. Lấy mỗi can lưu hành 12 tháng mà an Sinh Vượng Mộ Tuyệt.
23
Người dịch: Lephan, Letung73, Lesoi, Huyanh, Tuhuynhan, Hùng804
Kimtubinh.net
Từ chú: Thuyết Sinh vượng mộ tuyệt đã có từ rất xưa. "Chuẩn nam tử" viết: Xuân lệnh
mộc tráng, thủy lão, hỏa sanh, kim tù, thổ tử; "thái bình ngự lãm - ngũ hành hưu vượng
luận" viết: lập xuân cấn vượng, chấn tướng, tốn thai, ly một, khôn tử, đoái tù, kiền phế,
khảm hưu v.v... (Xem thêm trong "mệnh lý tầm nguyên"). Danh từ tuy hơi khác, nhưng ý
như nhau. Hậu thế dung 12 chi phối bát quái mà định ra thứ tự 12 ngôi từ Trường sanh
Mộc dục đến Thai Dưỡng (Xem thuyết minh hình dưới), tuy là thuyết của hạng thuật sĩ,
nhưng hợp lẽ tự nhiên của trời đất. Lời nói bình dân nhưng chứa đựng ý nghĩa rất tinh
túy, học ngũ hành âm dương không ngoài lẽ ấy.
Nguyên văn: Dương chủ tụ, lấy tiến làm tiến, nên nói chủ thuận; âm chủ tán, lấy thối
làm thối, nên nói chủ nghịch. Như Trường sinh Mộc dục cùng hạng, cho nên dương
thuận âm nghịch có khác. Vận 4 mùa tuần hoàn, công thành thì thoái, cùng dụng thì tiến,
nên nói mỗi tháng tuần hoàn, mà Sinh Vượng Mộ Tuyệt lại nhất định. Nơi dương sanh thì
âm tử, thay phiên tuần hoàn, là lẽ xoay vần của tự nhiên. Như lấy Giáp Ất mà luận, Giáp
là dương mộc, là mộc cành lá, thụ khí trời sinh, tự thu tàng no đủ, có thể dùng để khắc
phát tiết phát động, nên sinh ở Hợi. Khí hậu tháng Ngọ, mộc đang lúc cành lá sum xuê,
sao Giáp lại tử? Lại chẳng xét bên ngoài tuy phồn thịnh, mà trong thì sinh khí phát tiết
đến hết, bởi vậy nên nói Tử ở Ngọ vậy. Ất mộc ngược lại, tháng Ngọ cành lá phồn thịnh,
tức là được sinh, tháng Hợi cành lột lá rụng, tức là Tử. Luận theo chất khác với theo khí
vậy. Lấy Giáp Ất làm ví dụ trên minh họa.
Từ chú: Sinh Vượng Mộ Tuyệt tức là nơi sinh vượng mộ tuyệt của ngũ hành, chẳng phải
của 10 can. Gọi tên 10 can chi để đại biểu ngũ hành có âm có dương; ngũ hành tuy chia
âm dương, thật ra cũng là một. Giáp Ất cùng là 1 mộc, chẳng chia hai. Dần Thân Tị Hợi
là nơi ngũ hành Trường sinh Lâm quan; Tý Ngọ Mão Dậu là nơi ngũ hành Vượng địa;
Thìn Tuất Sửu Mùi là nơi ngũ hành Mộ địa. Chẳng phải chia ra can âm can dương có
Trường sinh lộc vượng mộ riêng. Do Trường sinh lâm quan vượng mộ, mà có chi tàng
nhân nguyên, xem nhân nguyên ti lệnh đồ bên dưới khắc tự hiểu rõ. Nói riêng về lý thì
mọi vật đều có âm dương, dương cực tất âm sanh, thí dụ như kim điện từ, Giáp đoan là
dương lấy dụng mà luận, sinh vượng mộ tuyệt, chỉ phân ngũ hành, bất tất phân âm
dương. Lại theo các sách thuật số, chỉ nói ngũ dương trường sanh, mà không nói đến ngũ
âm trường sanh, chỉ nói dương nhận mà không nói đến âm nhận, hậu thế chưa rõ lý mà
muốn binh vực thuyết ấy, bẻ lý chi ly, chẳng biết theo ai. Hoặc nói ngũ âm không có
Nhận, hoặc nói ngôi trước là Nhận, hoặc nói ngôi sau là Nhận (Như Ất lấy Dần hoặc
Thìn làm Nhận), mỗi người mỗi ý riêng, phân ra nhiều thuyết khác nhau, thật chưa rõ lý.
Tam, luận âm dương sanh tử (P2)
Nguyên văn: Chi có 12 tháng, lại nói mỗi can từ Trường sinh tới Thai Dưỡng, cũng chia
ra 12 ngôi. Khí chi bởi thịnh mà suy, suy rồi thịnh lại, chia nhỏ kể ra thành 12 tiết. Như
Trường sinh Mộc dục cùng tên, mượn từ để mà hình dung. Trường sinh như người ta lúc
mới sanh ra. Mộc dục như người ta sau khi sanh tắm gội cho sạch; như hột trái cây đã
thành; trước phải thanh vỏ, sau mới rửa sạch. Tới Quan đới thì hình khí lớn dần, quan
đới như người đến tuổi trưởng thành vậy. Lâm quan là đã trưởng thành lúc đang mạnh
mẽ (30 tuổi), như người có khả năng có thể ra làm quan. Đế vượng là khi tráng thịnh đến
cùng cực, như đại thần phò vua giúp nước. Thịnh cùng cực thì suy kém, suy là lúc vật bắt
đầu biến vậy. Bệnh là lúc đã quá suy. Tử, khí tận hết chẳng còn. Mộ, tạo hóa thu tàng,
như người lúc chôn xuống đất vậy. Tuyệt là khí trước đã tuyệt, khí sau chưa tiếp nối.
24