1. Trang chủ >
  2. Thể loại khác >
  3. Tài liệu khác >

Chương 16 - Luận tạp khí như hà thủ dụng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (6.57 MB, 325 trang )


Người dịch: Lephan, Letung73, Lesoi, Huyanh, Tuhuynhan, Hùng804



Kimtubinh.net



là tạp khí? 12 chi trừ Tý Ngọ Mão Dậu khí chuyên ra, Dần Thân Tị Hợi và Thìn Tuất Sửu

Mùi, đều tàng 3 can. Do tàng nhiều ít, vốn là tạp, riêng khí tàng Dần Thân Tị Hợi, chính

là sanh khí và đương vượng khí, trường sanh lộc vượng, khí thế tương thông, so với tàng

của Thìn Tuất Sửu Mùi, không giống. Như Thìn tàng Mậu vốn là bản khí, trong 18 ngày

đầu, Ất còn dư khí, thủy là mộ khố, ý nghĩa hiệu dụng khác biệt, nên nói là tạp. Phép

chọn dụng thần, như can đầu thấu ra, chi Thìn hội thành cục, tất nhờ thấu ở can, hội thành

cục là dụng, vì hễ thấu tất dụng thanh, hội tất lực mạnh vậy. Không thấu chẳng hội, tất

lấy thổ luận, vì vật tàng gửi mà không nắm lệnh, lực lượng nhược, không thể dùng vậy

Lại như Thìn Sửu là thấp thổ, Tuất Mùi là táo thổ, cách dùng khác biệt, cũng không thể

bỏ qua.

Nguyên văn: Thấu can là sao? Như Giáp sanh tháng Thìn, thấu Mậu tất dụng Thiên tài,

thấu Quý tất dụng Chánh ấn, thấu Ất tất dụng tháng Kiếp là thế. Hội là sao? Như Giáp

sanh tháng Thìn, gặp Thân Tý hội cục, tất dụng thủy Ấn vậy. Chỉ thấu 1 tất dụng 1, kiêm

thấu tất kiêm dụng, thấu mà lại hội, tất thấu và hội đều dụng. Như hợp mà có tình là tốt,

hợp mà vô tình tất xấu.

Từ chú: Thấu can là lấy trong các chi tàng, thấu ở can vậy. Bát tự phàm tàng trong chi,

tất nên thấu ra can; muốn dụng thiên can, tất nên thông căn. " Tích thiên tủy " viết: " toàn

là thiên khí, không có gì để tải địa đức; địa toàn tam vật, bất khả sử thiên đạo mạc chi

dong."Tam vật tức là 3 thần tàng trong chi vậy. Thấu ở can, tức là có thể dung thiên đạo;

thiên can thông căn, tức là có thể tải địa đức vậy.

Thí dụ như Thìn thổ thấu Mậu, là khí đương vượng chi, không cần phải nói hĩ, Ất Quý

tuy lực lượng chẳng đủ, nhưng thấu ra can đầu, tác dụng hiển hiện. Hội chi là ví như chi

Thìn hội hợp vậy. Hội Tý Thân tất hóa thủy, hợp Dậu tất hóa kim. Hội hợp thành cục, khí

thế cường thịnh, bất luận là hỉ hay kị, đã thấu can hội chi, tất không thể bỏ qua. Hỉ tất là

có tình nên cát, kị tất là vô tình nên hung.

Nguyên văn: Có tình là sao? Thuận mà tương thành vậy. Như Giáp sanh tháng Thìn,

thấu Quý là Ấn, như lại hội Tý hội Thân để thành cục, cách Ấn thụ, thanh mà chẳng tạp,

nhờ thấu can và hội chi, hợp nên có tình vậy. Lại như Bính sanh tháng Thìn, thấu Quý là

Quan, như lại gặp Kỷ là Ấn, Quan Ấn tương sanh, mà Ấn lại có thể khử ám thổ trong

Thìn để thanh Quan, nhờ cả 2 can đều thấu, hợp nên có tình vậy. Lại như Giáp sanh

tháng Sửu, thấu Tân là Quan, hoặc hội Tị Dậu thành kim cục, như lại thấu Kỷ Tài sanh

Quan, Tài Quan cả 2 can đều thấu, gặp hội hợp nên có tình vậy.

Từ chú: Thế nên chuyên luận can chi thấu là có tình hay vô tình, không nói toàn cục là hỉ

hay kị vậy. Như Giáp sanh tháng Thìn, nguyệt lệnh Thiên tài thấu Quý, như lại hội Tý

hội Thân, tất Tài hóa ra Ấn, Ấn thụ cách thành hĩ. Thân cường Ấn vượng, hoặc lấy Thực

thương để tiết tú, hoặc lấy Tài tinh để tổn Ấn (Trên can giờ riêng có Tài tinh, Thìn thổ

hội hợp hóa thủy cục, không thể lấy để tổn Ấn). Thực thương với Tài, là tương thần ở

trên, lại trở thành cách cục, không nhờ can thấu chi hội, làm sao dùng được như vậy.

Bính sanh tháng Thìn, Quý Ất đều thấu, Quan Ấn tương sanh là có tình. Thân cường lấy

Quan là dụng, riêng lấy Tài sanh Quan; thân nhược lấy Ấn là dụng, tức lấy Ấn hóa Quan,

Giáp sanh tháng Sửu cũng thế. Tuy kiêm dụng, tất nên chú trọng, xem hỉ kị toàn cục, mới

định được cốt yếu của nhật nguyên.

Nguyên văn: Vô tình là sao? Là trái ngược lại. Như Nhâm sanh tháng Mùi, thấu Kỷ là

Quan, như địa chi hội Hợi Mão trở thành Thương quan cục, thế là Quan thấu và chi hội,

hợp mà vô tình vậy. Lại như Giáp sanh tháng Thìn, thấu Mậu là Tài, lại thấu Nhâm hoặc

98



Người dịch: Lephan, Letung73, Lesoi, Huyanh, Tuhuynhan, Hùng804



Kimtubinh.net



Quý là Ấn, thấu Quý tất Mậu Quý tác hợp, Tài Ấn đều mất, thấu Nhâm tất Tài Ấn đều bị

thương, lại tham Tài hại Ấn, thế là 2 can đều thấu, hợp mà vô tình vậy.

Lại như Giáp sanh tháng Tuất, thấu Tân là Quan, như lại thấu Đinh Thương quan, chi

tháng lại hội Dần hội Ngọ trở thành Thương quan cục, thế là 2 can đều thấu, với chi hội

hợp vô tình vậy.

Từ chú: Hợp mà vô tình, tức là đới kị, trong cục như không có cứu ứng, tất là bại cách.

Như Nhâm sanh tháng Mùi, can thấu Quan mà chi hội Thương, trụ có trọng Ấn, chế

Thương để hộ Quan, hoặc thân vượng có Tài, hóa Thương để sanh Quan, đều gọi là cứu

ứng vậy. Giáp sanh tháng Thìn, Nhâm Mậu Tài Ấn đều thấu, như Tài Ấn chia ra ở năm

giờ, cách bởi Quan, Quan hóa Tài sanh Ấn, cách bởi Kiếp, chế Tài hộ Ấn, hoặc cách bởi

Đinh hỏa Thương quan, hợp mất Ấn để tựu Tài, đều gọi là cứu ứng vậy. Giáp sanh tháng

Tuất cũng thế. Như không có cứu ứng, là bại cách, cục bần tiện vậy.

Chương 16 - Luận tạp khí như hà thủ dụng (P.2)

Nguyên văn: Lại có có tình mà rốt cuộc thành vô tình giả, là sao? Như Giáp sanh tháng

Thìn, gặp Nhâm là Ấn, như lại gặp Bính, Ấn thụ vốn là hỉ, tiết thân là tú, tự thành cách

hĩ, nhưng hỏa sanh thổ, lại tự giúp Mậu trong Thìn, Ấn cách chẳng thanh, như can Nhâm

thấu mà chi lại hội Thân hội Tý, tất Bính thấu cũng không ngại. Lại như Giáp sanh tháng

Thìn, thấu Nhâm là Ấn, tuy không lộ Bính nhưng chi gặp ngôi Tuất, Tuất với Thìn xung,

tháng xung nên thổ động, can đầu Nhâm khó thông nguyệt lệnh, Ấn cách chẳng thành,

thế là đều có tình mà rốt cuộc vô tình, phú mà chẳng quý vậy.

Từ chú: Có tình mà rốt cuộc vô tình, nên xem địa vị phối trí như thế nào. Như Giáp sanh

tháng Thìn, mà năm Bính tháng Nhâm Thìn, tất Bính hỏa bị Nhâm thủy chế, không thể

tiết Giáp mộc cho đẹp. Như là ngày Giáp giờ Bính Dần, Bính cùng với Thìn thổ cách

nhau, tất Bính hỏa tiết tú mà không thể sanh Thìn thổ vậy. Hội Thân hội Tý, tất Ấn cách

thanh, nhưng không thể dùng Bính tiết tú, nhưng nên xem kỹ ngôi vị, 1 ví dụ không kể

hết vậy. Nhâm tự thấu Thìn, thủy phò lộ, không thể là dụng, thế là Ấn cách thành mà

chẳng thành, phú mà chẳng quý vậy. Thế là trọc mà chẳng thanh, nếu không dùng Ấn tức

khả lấy phú cách là vậy.

Nguyên văn: Lại có khi vô tình mà kết cục trở thành có tình, là sao? Như Quý sanh

tháng Thìn, thấu Mậu là Quan, lại hội Thân hội Tý trở thành thủy cục, can thấu với chi

hội khắc nhau hĩ. Nhưng Kiếp bị khắc, ví như tháng Kiếp dùng Quan, hà thương chi có?

Lại như Bính sanh tháng Thìn, thấu Mậu là Thực, như lại thấu Nhâm là Sát, thế là 2 can

đều thấu, mà tương khắc vậy. Nhưng khắc Thiên quan, ví như Thực thần đới Sát, Sát gặp

Thực chế, cả 2 đều là cách tốt, cục như thế càng quý. Thế là đều vô tình mà kết cục trở

thành có tình vậy.

Từ chú: Vô tình mà kết cục trở thành có tình, chính nhờ tương khắc mà thành vậy.

Nguyên văn rất rõ, chuyên dùng Quan thì Quan nên vượng; như dùng Tài sanh Quan, nên

thấu ra can đầu, không nên bị Tỷ kiếp đoạt; hoặc nên có Thực để hóa kiếp, cùng 1 kiểu

với tháng kiếp dụng Quan. Bính sanh tháng Thìn, Mậu Nhâm đều thấu, tất Mậu cường

mà Nhâm nhược, Mậu là khí đang vượng, Nhâm Sát nên có Tài sanh Ấn hóa, mới có thể

dùng, so với Thực thần đới Sát, Sát gặp Thực chế cùng loại.

Như Từ Nhạc Ngô:



99



Người dịch: Lephan, Letung73, Lesoi, Huyanh, Tuhuynhan, Hùng804



Tỉ



Sát



Nhật chủ



Tỉ



Bính



Nhâm



Bính



Bính



Tuất



Thìn



Thân



Thân



Kimtubinh.net



Nhâm thủy trong Thìn thấu ra, lấy Ất mộc trong Thìn hóa Sát là dụng vậy (Sanh sau

Thanh minh 1 ngày ất mộc nắm lệnh, nên khả dụng). Đại loại như thế, không thể kể hết,

ví dụ là như thế, coi lấy để mà ngộ.

Chương 17 - Luận mộ khố hình xung chi thuyết

Chương 17 - Luận mộ khố hình xung chi thuyết

Nguyên văn: Có thuyết cho là Thìn Tuất Sửu Mùi mừng gặp hình xung, Tài Quan nhập

khố không xung chẳng phát, tuy rất nhiều tục thư theo thuyết ấy, nhưng tiên sanh Tử

Bình lập mệnh không nói vậy. Như tạp khí thấu can hội chi, chẳng phải tốt lắm sao? Cớ

chi phải cần hình xung? Như Giáp sanh tháng Thìn, Mậu thổ thấu ra không phải Thiên

tài sao? Thân Tý hội không phải Ấn thụ sao? Còn như Mậu thổ không thấu, tức Thìn

Tuất xung nhau, Tài cách do thế chẳng được thanh vậy. Hoặc như thấu Nhâm là Ấn, có

Thìn Tuất xung nhau, khiến Ấn bị lụy, sao lại có thể là xung khai Ấn khố?

Từ chú: Thuyết Tài Quan nhập khố không xung không phát rất là sai lầm. Xung là khắc,

khắc nên khử bỏ mất. Thìn Tuất Sửu Mùi,đều thuộc thổ, hình xung cùng khí nên không

ngại lắm. Ta còn ngờ rằng vì hình xung mà tổn cách phá dụng, như hội hợp mà thế

cường, các chi đều có đủ, tạp khí sao lại khác? Giáp sanh tháng Thìn, thấu Nhâm là Thiên

Ấn, Thìn là gốc của Nhâm thủy, bị Tuất xung tất bật gốc, không thể không có hại, sao có

thể nói là nhờ xung mà phát được? Rõ là tục thuyết không có căn cứ vậy.

Nguyên văn: Huống hồ trong tứ khố, tuy ngũ hành đều có, nhưng rốt cuộc đều lấy thổ là

chủ. Thổ xung tất ứng nghiệm, còn kim mộc thủy hỏa, sao nói lấy xung tứ khố để động?

Có câu Tài Quan đều thuộc thổ, xung tất khố mở ra, như đại loại Giáp dùng Mậu Tài mà

gặp Thìn Tuất xung, Nhâm dùng Kỷ Quan mà được Sửu Mùi xung. Nhưng rốt cuộc nếu

lấy Mậu Kỷ thấu ra là dụng, can đã thấu, tức không xung cũng đắc dụng vậy. Hoặc Tài

Quan là thủy, xung tất thành phiền não, như Kỷ sanh tháng Thìn, Nhâm thấu là Tài, Tuất

xung tất Mậu Kiếp động, có ích lợi gì chứ? Đinh sanh tháng Thìn, thấu Nhâm là Quan,

Tuất xung tất Thương quan động, sao lại không hại? Như thế vị chi gặp xung mà Tài khố

Quan khố của Nhâm thủy có mở ra đâu?

Từ chú: Tài Quan thuộc thổ, xung tất khố mở ra, cũng có tục thuyết. Nên nhớ Giáp sanh

tháng Thìn, chỉ có thủy là gặp khố, thổ là bản khí, ất là dư khí đều không phải khố. Nếu

thổ là dụng, xung tất thổ động, sao có thể không sợ? Lấy Ất mộc là dụng, xung tất Tân

kim trong Tuất trổi dậy khắc mộc, cũng là chuyện chẳng tốt; như thủy mộc thấu can, tất

gốc rễ bị tổn, không thấu tất vốn là không thể dùng, xung hay không có quan hệ gì?

Nguyên văn: Thời nay chẳng biết lý ấy, thậm chí lấy xuất khố cho là nhập khố. Như

Đinh sanh tháng Thìn, Quan Nhâm thấu can, không kể là Nhâm trong khố, thấu ra can

100



Người dịch: Lephan, Letung73, Lesoi, Huyanh, Tuhuynhan, Hùng804



Kimtubinh.net



đầu, lại nói ngược là Nhâm can, gặp Thìn nhập khố, cầu mong Tuất để xung thổ, chẳng

thấy là Quan sẽ bị tổn thương. Thật đáng cười, nếu nguyệt lệnh không là tứ mộ, dụng

thần khác biệt, trong năm tháng ngày giờ có 1 cái gặp mộ, mới mong cầu hình xung;

ngày lâm tứ khố lại không kể là thân đóng khố có gốc, lại đi cho là thân chủ nhập khố và

đi cầu xung để giải. Các loại lý luận ấy đều là sai lầm, chớ nên nghe theo!

Từ chú: Thuyết đầu khố nhập khố đều do người thuật lại mà không chịu giảng rõ nguyên

lý, nên nghe sai lại truyền đi sai lầm. Kỷ dùng Nhâm là Tài gặp Thìn tất thủy dừng lại

không chảy nữa, gọi là Tài quy khố; Đinh dụng Nhâm là Quan, gặp Thìn là Quan đầu

mộ. Cũng có khi lấy quy khố đầu mộ là cát, gặp xung phản là bất lợi, cho dù không phải

là mộ khố, cũng đương cầu dẫn hóa ở phương, không phải hình xung là có thể giải được.

Hoặc có mộ khố tại chi năm ngày giờ, lại có hội hợp tất lấy ngũ hành của hội hợp để luận

(như Thìn hội Tý lấy thủy mà luận, Tuất hội Ngọ lấy hỏa mà luận). Như khí hội đủ cả 1

phương, tất lấy ngũ hành của phương hội đó mà luận (như Thìn hội Dần Mão lấy mộc mà

luận, Tuất hội Thân Dậu lấy kim mà luận). Không hội hợp liên tiếp, tất lấy Thổ luận.

Ngày lâm khố, như Nhâm Thìn, Bính Tuất đều có thân thông căn khố. Như Bính Thìn,

Nhâm Tuất, tức chẳng là khố của thân.

Nguyên văn: Nhưng cũng có khi gặp xung mới phát, là sao? Như Quan tối kị xung,

nhưng Quý sanh tháng Thìn, thấu Mậu là Quan, Thìn với Tuất xung nhau, không gặp phá

cách, tứ khố mừng được xung, như thế là đủ dụng. Tức là các loại Tý Ngọ Mão Dậu là

cừu địch nhau, xung ấy là xung khắc, còn như tứ mộ thổ tự xung nhau, xung ấy là xung

động, chẳng phải là xung khắc vậy. Như đã lấy thổ là Quan, có hại chi đâu?

Từ chú: Quý sanh tháng Thìn, thấu Mậu thổ Quan tinh, gặp xung chẳng phá cách, tức là

vì Thìn Tuất cùng 1 khí, nên nói chẳng ngại lắm. Xung chẳng nên mừng là khi Dần Thân

Tị Hợi xung nhau là tối kị, ấy vì là sanh địa của ngũ hành bị xung. Tý Ngọ Mão Dậu

xung nhau, có thành có bại, tất là vì cả 4 đều là bại địa cũng là vượng địa. Kị thần bị xung

mất trở nên thành, hỉ thần gặp xung trở nên bại, còn như xung mộ thì không đáng ngại

lắm. Nhưng cũng nên chú ý, xem dùng nhân nguyên thế nào. Như Ất mộc trong Thìn,

trong 10 ngày sau thanh minh, do Ất mộc dư khí còn vượng, tất trước chọn Ất mộc là

dụng, trường hợp này bị xung tất không phải không có quan hệ.

Nguyên văn: Nên nói tứ mộ tuy chẳng kị hình xung, nhưng hình xung chưa chắc đã

thành cách. Lý ấy rất rõ, nghe phải hiểu.

Từ chú: Tứ mộ tuy chẳng kị hình xung, nhưng gặp hình xung chưa chắc là thành. Chỉ có

12 chữ nhưng rất đổi tinh vi, người đọc nên chú ý.

Chương 18 - Luận tứ cát thần năng phá cách

Chương 18 - Luận tứ cát thần năng phá cách

Nguyên văn: Tài Quan Ấn Thực, là 4 cát thần, nhưng cũng có khi không thể dùng, mà

lại cũng có thể phá cách.

Từ chú: Quan sát Tài Ấn Thực thương, chỉ là những đại danh từ dựa theo ngũ hành sanh

khắc, chỉ là nói cho gọn, không ngoài ý nghĩa cương nhu tương phối, nên tên gọi tuy có

thiên chánh, chẳng có gọi là cát hay hung vậy. Cốt yếu ở chỗ hợp với ta, tức là cát, không

hợp, tức là hung. Thành cách phá cách, cho tới hỉ kị, không ngằm ở tên gọi vậy. Xem kỹ

chương thành bại cứu ứng.

101



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (325 trang)

×