1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Sư phạm >

Phần này được trình bày dựa theo [5, tr. 106 - 124].

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.88 MB, 89 trang )


thức là hành động nhận ra, hiểu được về một vấn đề cụ thể trong đời sống vật

chất hoặc tinh thần của con người.

Vai trò của thực tiễn với nhận thức:

Con người luôn luôn có nhu cầu khách quan là phải giải thích và cải tạo

thế giới, điều đó bắt buộc con người phải tác động trực tiếp vào các sự vật,

hiện tượng bằng hoạt động thực tiễn của mình, làm cho các sự vật vận động,

biến đổi qua đó bộc lộ các thuộc tính, những mối liên hệ bên trong. Các thuộc

tính và mối liên hệ đó được con người ghi nhận chuyển thành những tài liệu

cho nhận thức, giúp cho nhận thức nắm bắt được bản chất các quy luật phát

triển của thế giới. Chẳng hạn, xuất phát từ nhu cầu cần đo đạc diện tích, đo

sức chứa của các bình mà toán học ra đời và phát triển... Suy cho đến cùng

không có một lĩnh vực nào lại không xuất phát từ thực tiễn, không nhằm vào

việc phục vụ hướng dẫn thực tiễn.

Mặt khác, nhờ có hoạt động thực tiễn mà các giác quan con người ngày

càng được hoàn thiện; năng lực tư duy lôgíc không ngừng được củng cố và

phát triển; các phương tiện nhận thức ngày càng tinh vi, hiện đại, có tác dụng

“nối dài” các giác quan của con người trong việc nhận thức thế giới. Chẳng

hạn, từ công việc điều hành, tổ chức nền sản xuất... mà đòi hỏi các môn khoa

học quản lý ra đời và phát triển.

Hơn nữa, nhận thức ra đời và không ngừng hoàn thiện trước hết không

phải vì bản thân nhận thức mà là vì thực tiễn, nhằm giải đáp các vấn đề thực

tiễn đặt ra và để chỉ đạo, định hướng hoạt động thực tiễn.Chẳng hạn, các môn

khoa học quản lý ra đời nhằm giúp các nhà quản lý tìm ra các biện pháp nâng

cao năng suất lao động, nâng cao hiệu quả kinh tế.

Như vậy, thực tiễn vừa là cơ sở, động lực vừa là mục đích của nhận thức.

Không những thế thực tiễn còn là tiêu chuẩn để kiểm tra kết quả nhận thức,

kiểm tra chân lý. Bởi vì nhận thức thường diễn ra trong cả quá trình bao gồm

12



các hình thức trực tiếp và gián tiếp, điều đó không thể tránh khỏi tình trạng là

kết quả nhận thức không phản ánh đầy đủ các thuộc tính của sự vật. Mặt khác,

trong quá trình hình thành kết quả nhận thức thì các sự vật cần nhận thức

không đứng yên mà nằm trong quá trình vận động không ngừng. Trong quá

trình đó, nhiều thuộc tính, nhiều mối quan hệ mới đã bộc lộ mà nhận thức

chưa kịp phản ánh. Để phát hiện mức độ chính xác, đầy đủ của kết quả nhận

thức phải dựa vào thực tiễn. Mọi sự biến đổi của nhận thức suy cho cùng

không thể vượt ra ngoài sự kiểm tra của thực tiễn chịu sự kiểm nghiệm trực

tiếp của thực tiễn. Qua thực tiễn để bổ sung, điều chỉnh, sửa chữa, phát triển

và hoàn thiện kết quả nhận thức. C. Mác viết: “Vấn đề tìm hiểu xem tư duy

của con người có thể đạt tới chân lý khách quan hay không, hoàn toàn không

phải là vấn đề lý luận mà là một vấn đề thực tiễn. Chính trong thực tiễn mà

con người phải chứng minh chân lý”.

Thực tiễn quyết định nhận thức, vai trò đó đòi hỏi chúng ta phải luôn

luôn quán triệt quan điểm mà V.I Lênin đã đưa ra: “Quan điểm về đời sống,

về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản nhất của lý luận nhận

thức”. Quan điểm này yêu cầu việc nhận thức phải xuất phát từ thực tiễn, dựa

trên cơ sở thực tiễn, đi sâu vào thực tiễn, phải coi trọng công tác tổng kết thực

tiễn. Việc nghiên cứu lý luận phải liên hệ với thực tiễn, học đi đôi với hành.

1.2.2.



Các loại tình huống gắn với thực tiễn trong dạy học môn

Toán

Các loại tình huống gắn với thực tiễn bao gồm:



-



Tình huống gắn với các môn khoa học khác: đây là các tình huống toán học

có liên quan đến các môn khoa học như vật lí, hóa học, địa lí…Ví dụ như:

vector có trong vật lí khi ta phân tích các lực tác dụng lên một vật, lượng giác

dùng trong địa lí để đo đạc.



13



-



Tình huống bắt nguồn từ cuộc sống: ví dụ như vận dụng công thức tính thể

tích hình hộp để xác định độ dài cạnh của hình hộp thỏa mãn điều kiện nào



1.2.3.



đó, đối xứng trục trong cấu tạo của nhiều loài động vật, thực vật…

Nguyên tắc thiết kế một tình huống gắn với thực tiễn trong dạy học toán

học

Khi thiết kế một tình huống gắn với thực tiễn cần phải tuân thủ các

nguyên tắc sau:

- Đảm bảo tính chính xác, khoa học: kiến thức Toán học trong tình huống

phải đúng với chuẩn đã đặt ra, đồng thời kiến thức liên quan đến các lĩnh vực

khác phải được tìm hiểu kĩ, tham khảo ở các trang web hay quyển sách uy tín.

- Đảm bảo tính thực tiễn: Tình huống thiết kế phải xuất phát từ thực tiễn,

nhằm trang bị cho học sinh những kiến thức cơ bản để giải quyết các tình

huống trong cuộc sống.

- Đảm bảo tính trọng tâm: Tình huống đó phải tập trung vào mục tiêu của bài

dạy, việc đưa ra quá nhiều nội dung không liên quan đến mục tiêu dạy học sẽ

dẫn đến mất thời gian, học sinh không thấy được cái cốt lõi của vấn đề.

- Đảm bảo tính logic, ngắn gọn: thời gian một tiết học có hạn nên tình

huống cần phải ngắn gọn. Để học sinh dễ nắm bắt, hiểu được vấn đề thì tình

huống phải có tính logic.

- Đảm bảo tính giáo dục: nội dung và tư tưởng phải nhằm giáo dục học

sinh có thế giới quan, nhân sinh quan đúng đắn.

- Đảm bảo tính sư phạm: Tình huống thiết kế phải vừa sức, phù hợp với

tâm lý của học sinh.

- Kích thích sự hứng thú, khả năng sáng tạo của học sinh: tình huống thiết

kế phải hấp dẫn, gây thích thú, gợi nhu cầu muốn nhận thức.



1.2.4.



Thiết kế tình huống gắn với thực tiễn



14



Để tạo ra một tình huống gắn với thực tiễn thỏa mãn các yêu cầu là

không hề dễ, sau đây tôi đưa ra một số việc giáo viên cần thực hiện để giúp

giáo viên có thể thiết kế tình huống dễ dàng hơn.

-Xác



định những nội dung có thể thực hiện thiết kế tình huống gắn với thực



tiễn. Trong chương trình toán trung học phổ thông có các nội dung như:

-



xác suất thống kê, tích phân, hình học không gian, véc tơ.

Xác định mục tiêu và nội dung chính của bài học, những nội dung nào có thể



-



dạy học theo lí thuyết tình huống.

Thu thập dữ liệu: đó là các tài liệu, tranh ảnh, báo, tạp chí,ca dao, tục ngữ,



-



những câu chuyện có liên quan…

Đánh giá, phân tích dữ liệu: sàng lọc các thông tin quan trọng, phù hợp với



-



nội dung dạy học.

Lựa chọn hình thức, kĩ thuật thiết kế: Tùy theo nội dung và điều kiện cụ thể,

giáo viên có thể thiết kế tình huống dưới các hình thức sau:

+ Mô tả tình huống bằng câu truyện, câu thơ, ca dao, tục ngữ.

+ Mô tả tình huống thông qua các đoạn phim ngắn, clip.

+ Mô tả tình huống thông qua các thí nghiệm nhỏ.

+ Sử dụng tranh ảnh, hình ảnh, mẫu vật.

- Thiết lập hệ thống các câu hỏi cần trả lời: đó là các câu hỏi tại sao, để làm gì,

bằng cách nào?... để dẫn dắt học sinh phát hiện vấn đề, hình thành tri thức.



1.2.5.



Một số lợi ích của việc dạy học gắn với thực tiễn

Thứ nhất: Lợi ích mà ta có thể nhìn thấy ngay đó là tạo sự hứng thú cho

học sinh trong học tập môn Toán: Hứng thú học tập là một điều khá quan

trọng trong việc học tập của học sinh, nó thúc đẩy học sinh tìm tòi, phát hiện

kiến thức. Khi ta có hứng thú về một cái gì đó, thì cái đó bao giờ cũng được ta

ý thức, ta hiểu ý nghĩa của nó đối với cuộc sống của ta. Hơn nữa ở ta xuất

hiện một tình cảm đặc biệt đối với nó, do đó hứng thú lôi cuốn hấp dẫn chúng

ta về phía đối tượng của nó tạo ra tâm lý khát khao tiếp cận đi sâu vào nó.

Vậy hứng thú và biểu hiện của hứng thú là gì?

15



- Hứng thú: Hứng thú là thái độ con người đối với sự vật, hiện tượng nào

đó. Hứng thú là biểu hiện sự ham thích của con người về sự vật, hiện tượng

nào, đó. Hứng thú giúp con người hành động năng động và sáng tạo hơn. Hứng

thú là tiền đề của sự đam mê, khi học sinh có hứng thú mà có sự tác động hợp

lí của giáo viên sẽ có thể dẫn học sinh đó đến đam mê.[13, tr.4 – 8]

- Biểu hiện của hứng thú với một đối tượng: chủ thể thường xuyên tìm hiểu

-



và làm việc với đối tượng đó; có nhu cầu sở hữu, chinh phục đối tượng.

Điều kiện để tạo ra hứng thú: Một sự vật, hiện tượng nào đó chỉ có thể trở

thành đối tượng của hứng thú khi chúng thỏa mãn 2 điều kiện sau đây:

Điều kiện cần: Sự vật và hiện tượng đó phải có ý nghĩa với cuộc sống của

cá nhân. Muốn hình thành hứng thú, chủ thể phải nhận thức rõ ý nghĩa của sự vật

và hiện tượng với cuộc sống của mình. Nhận thức càng sâu sắc và đầy đủ càng

đặt nền móng vững chắc cho sự hình thành và phát triển của hứng thú.

Điều kiện đủ: Khi nhận thức và thực hiện được “sự vật và hiện tượng” đó

phải có khả năng mang lại khoái cảm cho chủ thể.[13, tr.4 – 8]

Thứ hai: Góp phần hoàn thành mục tiêu, nhiệm vụ dạy học môn Toán ở

trường phổ thông trong giai đoạn hiện nay.

Trước hết ta cần đề cập đến mục tiêu chung của giáo dục nước ta đã

được quy định trong Luật Giáo dục (năm 2005): “Mục tiêu của giáo dục phổ

thông là giúp học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm

mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động và

sáng tạo, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây

dựng tư cách và trách nhiệm công dân; chuẩn bị cho học sinh tiếp tục lên hoặc

đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc” (Điều 27).

Nói một cách tổng quát, mục tiêu của nhà trường phổ thông nước ta là hình

16



thành những cơ sở ban đầu và trọng yếu của con người mới phát triển toàn

diện phù hợp với yêu cầu và điều kiện, hoàn cảnh của đất nước Việt Nam.

Để theo kịp những chuyển biến to lớn trên về tình hình kinh tế và chính

trị xã hội của nước ta cũng như trên thế giới trong giai đoạn này - một giai

đoạn mà cạnh tranh quốc tế là cạnh tranh về con người. Nền giáo dục phải có

sứ mệnh làm sao đào tạo ra những thế hệ con người Việt Nam có đủ sức

mạnh trí tuệ và nhân cách để đưa nước ta hội nhập thành công và cạnh tranh

thắng lợi trong môi trường toàn cầu. Xã hội công nghệ ngày nay đòi hỏi một

lực lượng lao động có trình độ suy luận, biết so sánh phân tích, ước lượng tính

toán, hiểu và vận dụng được những mối quan hệ định lượng hoặc logic, xây

dựng và kiểm nghiệm các giả thuyết và mô hình để rút ra những kết luận có

tính logic [38, tr. 5 - 6]. Muốn vậy, nền giáo dục cũng phải có những thay đổi

về mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp dạy học. Trong Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ X của Đảng, một trong những nhiệm vụ và giải pháp lớn về giáo

dục được đề ra là: “Nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện. Đổi mới cơ cấu,

tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và học theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại

hóa, xã hội hóa”. Phát huy trí sáng tạo, khả năng vận dụng, thực hành của

người học. Đề cao tránh nhiệm của gia đình, nhà trường và xã hội” [3, tr. 58].

Trong trường phổ thông môn Toán có vai trò, vị trí và ý nghĩa hết sức quan

trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung của giáo dục phổ thông. Đặc biệt

trong giai đoạn hiện nay nó càng có vai trò và ý nghĩa quan trọng hơn, là một

thành phần không thể thiếu của trình độ văn hóa phổ thông của con người mới.

Thứ ba: Giúp hình thành và phát triển thế giới quan duy vật biện chứng

cho học sinh.

Dạy học Toán theo hướng liên hệ với thực tiễn sẽ góp phần làm rõ câu

hỏi học Toán để làm gì của học sinh, cho học sinh thấy được mối quan hệ

17



biện chứng giữa Toán học và thực tiễn: Toán học bắt nguồn từ thực tiễn và

quay trở về phục vụ thực tiễn.

Lịch sử đã chứng minh rằng, Toán học có nguồn gốc từ thực tiễn, chính

sự phát triển của thực tiễn đã có tác động lớn đến Toán học. Thực tiễn là cơ

sở để nảy sinh, phát triển và hoàn thiện các lí thuyết toán học.

Ví dụ như: số tự nhiên ra đời do nhu cầu đếm đồ vật, hình học xuất hiện

do nhu cầu đo đạc lại ruộng đất sau những trận lũ lụt bên bờ sông Nil (Ai

Cập), hay lượng giác dùng để đo các khoảng cách không đến được, tích phân

để tính diện tích, thể tích …

Thứ tư: Giúp rèn luyện và phát triển các năng lực trí tuệ.

Trong giờ học Toán gắn với thực tiễn đòi hỏi học sinh phải sử dụng các

năng lực trí tuệ cơ bản như phân tích, tổng hợp, so sánh, khái quát hóa, để tìm

tòi, phát hiện ra kiến thức mới.

Thứ năm: Giúp học sinh nắm vững kiến thức cơ bản. Đồng thời phát

hiện, phát triển và bồi dưỡng năng lực ứng dụng toán học của học sinh, góp

phần tạo cơ sở để học sinh học tiếp hoặc đi vào cuộc sống.

Để giảm bớt sự trừu tượng và tạo niềm vui, hứng thú cho học sinh trong

quá trình học tập, giáo viên nên quan tâm đến việc liên hệ với thực tiễn. Xem

việc tăng cường liên hệ với thực tiễn là phương tiện để truyền thụ tri thức, rèn

luyện kỹ năng, bồi dưỡng ý thức và năng lực ứng dụng Toán học.

Thế giới đã bước vào kỉ nguyên kinh tế tri thức và toàn cầu hóa. Với sự

phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ. Giáo dục, với chức năng chuẩn

bị lực lượng lao động cho xã hội, chắc chắn phải có những sự chuyển biến to

lớn tương ứng với tình hình. Hội đồng quốc tế về giáo dục cho thế kỷ 21 được

UNESCO thành lập 1993 do Jacques Delors lãnh đạo, nhằm hỗ trợ các nước

trong việc tìm tòi cách thức tốt nhất để kiến tạo lại nền giáo dục của mình vì

sự phát triển bền vững của con người. Năm 1996, Hội đồng đã xuất bản ấn

18



phẩm: Học tập một kho báu tiềm ẩn, trong đó có xác định “Học tập suốt đời”

được dựa trên “bốn trụ” cột là: Học để biết, Học để làm; Học để chung sống

với nhau; Học để làm người. “Học để làm” được coi là “không chỉ liên quan

đến việc nắm được những kĩ năng mà phải biết ứng dụng kiến thức”. Trong

đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng cũng nêu rõ: một trong những

nhiệm vụ và giải pháp lớn về giáo dục được đề ra là:“Nâng cao chất lượng

giáo dục toàn diện. Đổi mới cơ cấu, tổ chức, nội dung, phương pháp dạy và

học theo hướng “chuẩn hóa, hiện đại hóa, xã hội hóa”. Phát huy trí sáng tạo,

khả năng vận dụng, thực hành của người học. Đề cao trách nhiệm của nhà

trường và xã hội”.

Trong trường phổ thông môn Toán có vai trò, vị trí và ý nghĩa hết sức

quan trọng trong việc thực hiện mục tiêu chung của giáo dục phổ thông. Đặc

biệt trong giai đoạn hiện nay nó càng có vai trò và ý nghĩa quan trọng hơn, là

một phần không thể thiếu của trình độ văn hóa phổ thông của con người mới.

1.3. Vấn đề liên hệ toán học với thực tiễn trong sách giáo khoa hình học ở

trung học phổ thông hiện nay

Sách giáo khoa hiện nay đã có nhiều thay đổi, đã có những quan tâm

nhất định về liên hệ toán với thực tiễn, tuy nhiên mới chỉ dừng ở mức độ nêu

ra ngắn gọn, chưa có sự phân tích để thấy được ứng dụng của toán học trong

thực tiễn. Cụ thể:

1.3.1. Sách giáo khoa Hình học 10

a. Trong chương I: Vectơ

- Trong 1, có liên hệ vectơ với chuyển động của tàu thủy (trang 4), liên hệ

vectơ với lực kéo một khúc gỗ đi ngược dòng (trang 8).



19



- Trong 2, có liên hệ quy tắc hình bình hành với lực kéo một vật theo hai

hướng khác nhau (trang 14).

b. Trong chương II: Tích vô hướng của hai vectơ và ứng dụng

- Trong , có liên hệ định lí cosin trong tam giác để đo khoảng cách giữa hai

chiếc tàu (trang 54), liên hệ định lí sin trong tam giác để đo chiều cao của

ngọn núi (trang 56).

- Bài tập 17, 22, 37, 38 (trang 65, 67).

c. Trong chương III: Phương pháp tọa độ trong mặt phẳng

- Trong , phần mở đầu (trang 96 – 97).

- Trong bài đọc thêm (trang 125).

1.3.2. Sách giáo khoa Hình học 11

a. Trong chương I: Phép dời hình và phép đồng dạng trong mặt phẳng

- Trong , bài toán 2 (trang 7).

- Trong , phần áp dụng (trang 12).

- Trong , mục có thể em chưa biết (trang 21).

b. Trong chương II: Đường thẳng và mặt phẳng trong không gian. Quan hệ

song song

- Trong , mục 4 (trang 46)

b. Trong chương III: Vectơ trong không gian. Quan hệ vuông góc

- Trong , mục em có biết (trang 110).

20



1.3.3. Sách giáo khoa Hình học 12

a. Trong chương I: Khối đa diện và thể tích của chúng

- Trong , có hình ảnh của một em bé đối xứng qua gương, hình ảnh của

tháp Rùa đối xứng qua mặt nước.

b. Trong chương II: Mặt cầu, mặt trụ, mặt nón

Trong toàn bộ chương không có sự liên hệ với thực tiễn.

c. Trong chương III: Phương pháp tọa độ trong không gian

Toàn bộ nội dung của chương này không có sự liên hệ toán học với

thực tiễn.

Như vậy có thể thấy rằng: sách giáo khoa toán hiện nay đã có những

thay đổi lớn về nội dung theo hướng tích cực và vấn đề gắn liền toán học với

thực tiễn đã có những quan tâm nhất định. Tuy nhiên, như vậy là chưa đủ, cần

phải có thêm nhiều bài học gắn với thực tiễn hơn nữa, để học sinh thấy được

vai trò của toán học đối với thực tiễn, đồng thời rèn luyện kĩ năng vận dụng

toán học vào thực tiễn.

1.4. Tình hình dạy học môn toán theo hướng gắn với thực tiễn ở trung

học phổ thông

Việc dạy Toán trong nhà trường trung học phổ thông ở nước ta đã có

nhiều cải cách, nhưng nhìn chung vẫn loay hoay trong luồng tư duy cũ, thay

đổi một cách chắp vá, chương trình dạy học ở trường trung học phổ thông vẫn

còn nặng tính hàn lâm, ít liên hệ với thực tiễn cuộc sống. Khi dậy học nhiều

giáo viên chỉ quan tâm đến việc truyền đạt kiến thức một cách thụ động, luyện

giải bài tập mà chưa quan tâm đến rèn luyện năng lực và nhân cách chuẩn bị

21



vào đời. Dạy học toán ở nước ta hiện nay có tình trạng: “Các giáo viên không

thường xuyên rèn luyện cho học sinh thực hiện những ứng dụng của toán học

vào thực tiễn. Học sinh thường phải đi tìm những mắt xích suy diễn phức tạp,

họ được rèn luyện thêm về tư duy kỹ thuật khi phải tìm những thủ thuật lắt léo

để giải những bài toán không mẫu mực. Nhưng những khía cạnh nhân văn

trong cuộc sống đời thường hay bị bỏ qua”. Hoặc “chuộng cách dậy nhồi

nhét, luyện trí nhớ, luyện mẹo vặt để dậy những bài toán oái oăm, giả tạo,

chẳng giúp được gì mấy để phát triển trí tuệ mà làm cho học sinh thêm xa rời

thực tế, mệt mỏi và chán nản”[39, tr.35 – 40]

Xảy ra tình trạng trên có thể do một số nguyên nhân sau:

1)



Thứ nhất: Do áp lực thi cử kết hợp với bệnh thành tích, hay suy nghĩ “học

sinh lớp 12 thì phải thi đỗ đại học” đã tồn tại và ăn sâu vào tiềm thức của hầu

hết mọi người. Mặt khác đề ra trong các kì thì hầu như không đề cập đến các

ứng dụng thực tiễn. Vì vậy mà giáo viên cũng như học sinh chỉ chú ý vào các



2)



nội dung có trong đề thi.

Thứ hai: Do sách giáo khoa và tài liệu tham khảo.

Sách giáo khoa hiện nay tuy đã thay đổi theo hướng gắn với thực tiễn

hơn, tuy nhiên số lượng còn rất ít, chưa sâu và không hấp dẫn. Sách giáo khoa

đã ít sách tham khảo càng hầu như không có, đa phần các sách tham khảo chỉ

là các dạng, chủ đề luyện thi đại học. Với sự liên hệ quá ít như vậy sẽ không

hình thành và rèn luyện cho học sinh ý thức vận dụng toán học và không làm



3)



rõ được vai trò của toán học đối với cuộc sống.

Thứ 3: Từ khi còn trên ghế giảng đường, những người giáo viên tương lai

cũng chỉ học toán một các bó hẹp, hàn lâm, thiếu hẳn vốn kiến thức về thực



4)



tiễn của Toán học.

Thứ 4: Hiện nay đã có một số giáo viên có ý thức trong việc liên hệ toán với

thực tiễn, nhưng số giờ liên hệ với thực tiễn còn hạn chế do thời gian một tiết

không đủ, hơn nữa muốn có một giờ học Toán liên hệ với thực tiễn đòi hỏi

giáo viên phải đầu tư tìm hiểu và soạn giáo án rất công phu.

22



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

×