Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.27 MB, 112 trang )
6
cứu này nhằm giúp cho các nhà làm chính sách xây dựng chuẩn mực, ngƣời sử
dụng thông tin có thể xác định những yếu tố góp phần tăng độ đáng tin cậy của
thông tin BCTC.
Davood Khodadady (2012), nghiên cứu tại 49 ngân hàng thuộc sở hữu nhà
nƣớc và ngân hàng tƣ nhân ở Ấn Độ về đặc tính “Sự thích hợp” thông tin BCTC,
tác giả sử dụng phƣơng pháp thang đo Likert 5 điểm để đo lƣờng danh mục gồm 14
yếu tố có ảnh hƣởng đến sự thích hợp của thông tin BCTC, trong đó 10 yếu tố liên
quan đến giá trị dự báo và 4 yếu tố liên quan đến sự xác nhận. Kết quả của nghiên
cứu cho thấy là thông tin BCTC của các ngân hàng tƣ nhân thích hợp hơn thông tin
BCTC của các ngân hàng thuộc sở hữu nhà nƣớc.
Nelson và cộng sự (2005), đã xác định các đặc điểm của hệ thống và chất
lƣợng thông tin, bốn đặc tính của chất lƣợng thông tin là: tính chính xác, đầy đủ,
thích hợp và có thể hiểu đƣợc. Bằng một nghiên cứu thực nghiệm nhóm tác giả tiến
hành khảo sát 465 ngƣời sử dụng kho dữ liệu. Kết quả của nghiên cứu này cho thấy
tính chính xác là đặc trƣng chất lƣợng thông tin quan trọng nhất, kế đến là tính đầy
đủ.
Chất lƣợng thông tin BCTC còn đƣợc nhiều nhà nghiên cứu nhƣ Barth (2008),
Cohen (2004), Schipper (2003) lƣợng hóa gián tiếp thông qua các thành phần có
ảnh hƣởng tới chất lƣợng BCTC nhƣ hành vi quản trị lợi nhuận, BCTC đƣợc công
bố lại và thời hạn công bố BCTC. Điều chỉnh lợi nhuận là một kế hoạch của nhà
quản lý công ty nhằm tác động đến lợi nhuận nhằm công bố số lợi nhuận đáp ứng
đƣợc mục tiêu đã xác định trƣớc đó. Điều chỉnh lợi nhuận có thể đƣợc thực hiện
theo một trong hai cách: tăng lợi nhuận hoặc giảm lợi nhuận (Miettinen. J, 2008).
Điều chỉnh lợi nhuận đƣợc thực hiện có thể liên quan đến các khoản khuyến khích
vật chất cho nhà quản lý công ty hoặc cũng có thể nhằm đảm bảo các điều khoản
của hợp đồng tín dụng. Khi nói đến điều chỉnh lợi nhuận thì không chỉ nói đến việc
tác động bằng các con số thông qua các phƣơng pháp kế toán mà còn thông qua các
giao dịch trong hoạt động kinh tế. Điển hình cho quan điểm chất lƣợng BCTC liên
quan đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận là: Ali Shah S.Z et al (2009), Ebraheem
7
Saleem Salem Alzoubi (2012), Leila Hussein Amer, Naser Abdelkarim (2012),
Gulzar M.A (2011).
Huang Zhizhong và Zhang Juan (2011), thông qua phƣơng pháp lựa chọn các
công ty công bố lại BCTC cho thấy công bố lại BCTC là trƣờng hợp công bố BCTC
nhằm cung cấp sự khẳng định về những sai sót trọng yếu mà doanh nghiệp đã công
bố trong BCTC trƣớc đây. Điều này có nghĩa là BCTC công bố lại sẽ cho thấy dấu
hiệu rõ ràng là BCTC đã công bố trƣớc đây là không trung thực, thể hiện chất lƣợng
BCTC thấp.
1.1.2. Các nghiên cứu liên quan đến nhân tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng thông
tin trên BCTC.
1.1.2.1. Các yếu tố bên ngoài
N.Klai (2011), nghiên cứu tại các CTNY trên TTCK Tunis trong giai đoạn
1997-2007, cơ chế quản trị công ty ảnh hƣởng tới chất lƣợng thông tin KTTC của
các CTNY Tunisi. Kết quả cho thấy, ảnh hƣởng của nhà đầu tƣ nƣớc ngoài, yếu tố
sở hữu gia đình và tổ chức đầu tƣ làm giảm chất lƣợng BCTC, trong khi đó sự kiểm
soát từ phía nhà nƣớc và các tổ chức tài chính có tác độngthuận chiều tới chất lƣợng
thông tin KTTC công bố của các CTNY.
Stoderstrom và cộng sự (2007), chất lƣợng thông tin kế toán trên BCTC khi áp
dụng IFRS ảnh hƣởng bởi: chuẩn mực kế toán, hệ thống pháp luật và chính trị và
việc trình bày BCTC. Kết quả nghiên cứu cho thấy hệ thống pháp luật và chính trị
ảnh hƣởng quan trọng nhất đến chất lƣợng thông tin BCTC, nó có thể ảnh hƣởng
trực tiếp đến chất lƣợng thông tin kế toán hoặc ảnh hƣởng gián tiếp thông qua chuẩn
mực kế toán và việc trình bày BCTC.
K.Naser (2003), nghiên cứu tại các CTNY trên TTCK Saudi cho thấy các
BCTC tuân thủ chế độ và chuẩn mực kế toán, đảm bảo đầy đủ thông tin tài chính và
phi tài chính đƣợc đánh giá có chất lƣợng tốt.
Ferdy van Beest (2009), trong nghiên cứu của mình bên cạnh việc lƣợng hóa
chất lƣợng thông tin kế toán, nghiên cứu còn kiểm định mô hình hồi quy tuyến tính
bội để đánh giá các nhân tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng thông tin kế toán. Kết quả
8
nghiên cứu cho thấy các nhân tố bên ngoài có ảnh hƣởng trực tiếp đó là: chuẩn mực
kế toán, môi trƣờng pháp lý và đặc thù của ngành công nghiệp.
Lesley Stainbank (2008), nghiên cứu sự phát triển và tác động của IFRS đến
BCTC của các DNNVV ở Nam Phi, kết quả nghiên cứu cho thấy các doanh nghiệp
sẽ đƣợc hỗ trợ vốn tốt nhất khi lập BCTC tuân thủ đầy đủ các chuẩn mực của IFRS,
việc bãi bỏ hình thức thực thể doanh nghiệp ở Nam Phi là việc nên hƣớng tới.
BCTC sẽ đƣợc lập theo nhu cầu cung cấp thông tin của từng doanh nghiệp.
Valeria Maria Albert and Mihaela Serban (2012), nghiên cứu tại các DNNVV
ở Roma, qua phân tích quá trình hoạt động nhƣ số lƣợng doanh nghiệp, những khó
khăn và rủi ro trong quá trình hoạt động cũng nhƣ sự đóng góp vào GDP của các
DNNVV trong giai đoạn 2000 – 2007. Theo báo cáo thƣờng niên của các DNNVV
năm 2008, qua khảo sát các chủ sở hữu DNNVV cho thấy các vấn đề họ đang mắc
phải nhƣ: thiếu nguồn lực, hạn chế tiếp cận tín dụng, thiếu khách hàng, khả năng
cạnh tranh…xuất phát từ việc thông tin thiếu tin cậy trên BCTC, nghiên cứu cho
thấy BCTC đƣợc lập bởi các DNNVV chủ yếu là cung cấp cho cơ quan thuế chƣa
thực sự quan tâm đến chất lƣợng cung cấp cho ngƣời sử dụng. Kết quả nghiên cứu
cho thấy tầm quan trọng của kiểm toán độc lập về độ tin cậy của BCTC do các
DNNVV cung cấp, góp phần nâng cao khả năng tiếp cận vốn của DNNVV cũng
nhƣ quyết định cho vay của các ngân hàng hay tổ chức tín dụng. Kết quả này cũng
phù hợp với nghiên cứu Maines (2006) còn cho rằng một báo cáo kiểm toán có ý
kiến chấp nhận toàn bộ là điều kiện cần thiết để nhận biết thông tin KTTC đáng tin
cậy hoặc đƣợc trình bày trung thực.
1.1.2.2. Các yếu tố bên trong
Gul,F.A. and Leung,S. (2004), nghiên cứu tại các CTNY trên TTCK Hồng
Kông, cấu trúc HĐQT ảnh hƣởng đến việc công bố thông tin của DN. Kết quả cho
thấy tính kiêm nhiệm chức danh chủ tịch HĐQT và tổng giám đốc có ảnh hƣởng
đến công bố tự nguyện thông tin trên BCTC. Tƣơng đồng với kết quả nghiên cứu
của Nadia Smaili và cộng sự (2009) cho thấy rằng việc kiêm nhiệm hai chức danh
sẽ dẫn đến gian lận trên BCTC. Bên cạnh theo nghiên cứu của Arman Aziz Karagul
9
Ph.D và cộng sự (2011), nghiên cứu tại 70 công ty phi tài chính trên SGDCK
Istanbul ở Thổ Nhĩ Kỳ, nhóm tác giả tiến hành kiểm định các nhân tố đƣợc cho là
có ảnh hƣởng đến mức độ công bố thông tin nhƣ: tính kiêm nhiệm chức danh chủ
tịch HĐQT và giám đốc, tỷ lệ nắm giữ cổ phần bởi nhà đầu tƣ, tỷ lệ nắm giữ cổ
phần bởi thành viên trong gia đình, quy mô của HĐQT. Kết quả nghiên cứu cho
thấy: tính kiêm nhiệm hai chức danh, quy mô của HĐQT, tỷ lệ thành viên độc lập
của HĐQT có tác động tích cực đến mức độ công bố thông tin của doanh nghiệp.
Dechow (1996) và các nhà nghiên cứu khác cho rằng có mối quan hệ giữa chất
lƣợng TTKT và quản trị công ty, KSNB, quản trị lợi nhuận, vấn đề gian lận, đồng
thời khẳng định rằng quản trị công ty và KSNB công ty yếu kém sẽ làm giảm chất
lƣợng thông tin KTTC của công ty. Hơn nữa, thông tin quản trị công ty làm tăng giá
trị thông tin với những nhà đầu tƣ, điều này phù hợp với các CTNY. Thông tin quản
trị công ty giúp tăng chất lƣợng thông tin KTTC. Shireennjit K. Johl (2013) nghiên
cứu tại 620 công ty niêm yết tại Malaysia về mối liên hệ giữa Kiểm toán nội bộ
(KTNB) với hành vi điều chỉnh nội bộ, kết quả cho thấy KTNB hoạt động độc lập
có quan hệ trái chiều với hành vi điều chỉnh lợi nhuận.
Anu Agrawal và cộng sự (2004), nghiên cứu cho thấy rằng thành viên HĐQT
có chuyên môn về kế toán sẽ giúp cho HĐQT giám sát tốt quy trình lập BCTC nâng
cao chất lƣợng BCTC giảm thiểu việc công bố lại BCTC, kết quả cũng tƣơng đồng
với nghiên cứu của Sandeep Nabar (2007) nghiên cứu tại hơn 180 công ty ở Mỹ cho
thấy rằng những doanh nghiệp có thay đổi giám đốc tài chính có năng lực thì mức
độ công bố lại BCTC càng nhiều.
Jouini Fathi (2013), nghiên cứu tại các CTNY ở Pháp, các nhân tố nhƣ: đặc
điểm của HĐQT, cấu trúc sở hữu, hệ thống kiểm soát, loại hình công ty kiểm toán
ảnh hƣởng đến chất lƣợng báo cáo tài chính của các CTNY ở Pháp. Kết quả nghiên
cứu cho thấy có mối quan hệ tích cực giữa chất lƣợng TTKT với các nhân tố: quy
mô của HĐQT, tỷ lệ tham dự của các thành viên tại các cuộc họp HĐQT, loại công
ty kiểm toán, tình trạng niêm yết. Biến chất lƣợng TTKT đƣợc ƣớc tính theo 78
mục của chỉ số công bố thông tin.
10
Rusnah Muhamad và cộng sự (2009), nghiên cứu tại 159 CTNY ở Malaysia
năm 2006, nhằm kiểm định các nhân tố tác động đến chất lƣợng thông tin công bố
nhƣ: HĐTQ, BKS, Kiểm toán độc lập, KTNB, quy mô doanh nghiệp, ngành công
nghiệp. Kết quả cho thấy các nhân tố nhƣ quy mô doanh nghiệp, ngành công nghiệp
và đòn bẩy tài chính có mối liên hệ với chất lƣợng công bố thông tin.
Céline Michailesco (2010), nghiên cứu BCTC của 100 CTNY thuộc lĩnh vực
công nghiệp và thƣơng mại ở Pháp giai đoạn 1991 – 1995, bài nghiên cứu tiến hành
kiểm định năm nhân tố ảnh hƣởng là: Cấu trúc sở hữu, tình trạng niêm yết, lợi
nhuận và đòn bẩy tài chính. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng; tình trạng niêm yết
và đòn bẩy tài chính ảnh hƣởng đến chất lƣợng thông tin kế toán trên BCTC.
1.2. Các nghiên cứu ở trong nƣớc
1.2.1. Các nghiên cứu liên quan đến chất lƣợng thông tin BCTC
Nguyễn Đình Hùng (2010), thông tin tài chính đƣợc sử dụng để lƣợng hoá
gồm 30 khoản mục: (1) Chính sách kế toán sử dụng; (2) Các chuẩn mực kế toán và
áp dụng cho các khoản mục trên các báo cáo tài chính; (3)Các khoản mục tuân thủ
theo các chuẩn mực quốc gia; (4) Báo cáo tài chính năm tuân thủ theo theo một
trong các hệ thống chuẩn mực phổ biến: IFRS, GAAP; (5) Thuyết minh báo cáo tài
chính tuân thủ IFRS, GAAP; (6) Báo cáo kiểm toán của BCTC năm tuân thủ IFRS,
GAAP; (7) Ý kiến chấp nhận toàn bộ của kiểm toán viên đối với báo cáo tài chính
năm tuân thủ IFRS, GAAP, (8) BCTC tuân thủ IFRS, GAAP đƣợc kiểm toán công
bố trƣớc 30/4 hàng năm; (9) BCTC IFRS, GAAP chƣa đƣợc kiểm toán công bố
trƣớc 30/4 hàng năm; (10) Khai báo các giao dịch đối với các bên liên quan; (11)
Các dấu hiệu cho thấy các giao dịch đối với các bên liên quan đƣợc thực hiện theo
thị trƣờng hoặc không; (12) Các điều khoản chính xác về các bên liên quan; (13)
Báo cáo giữa kỳ (qu./6 tháng) tuân thủ IFRS, GAAP; (14) Thuyết minh cho các báo
cáo giữa kỳ; (15) Sự soát xét hoặc kiểm toán các báo cáo giữa kỳ; (16) Hợp nhất
báo cáo tuân thủ theo các chuẩn mực quốc gia; (17) Phƣơng pháp đánh giá tài sản;
(18) Liệt kê các bên liên kết mà công ty nắm phần lợi ích thiểu số; (19) Cấu trúc sở
hữu của các bên liên kết; (20) Một bản dự báo thu nhập cơ bản; (21) Một bản chi
11
tiết dự báo thu nhập; (22) Báo cáo phân tích theo bộ phận; (23) Cấu trúc doanh số;
(24) Cấu trúc chi phí; (25) Tên của công ty kiểm toán; (26) Công ty kiểm toán có
phải là những công ty hàng đầu trong nƣớc hoặc quốc tế; (27) Chính sách thay đổi
theo kiểm toán; (28) Mức phí kiểm toán; (29) Công ty kiểm toán báo cáo tài chính
có đồng thời cung cấp dịch vụ tƣ vấn; (30) Mức phí của dịch vụ tƣ vấn. Kết quả
nghiên cứu của ông cho thấy chất lƣợng TTKT của các CTNY ở Việt Nam có mức
độ kém, thông tin tài chính chƣa đƣợc công bố đầy đủ.
Võ Văn Nhị và Trần Thị Thanh Hải (2013), nghiên cứu “Một số ý kiến về chất
lƣợng BCTC của DNNVV ở Việt Nam”, nhóm tác giả có dẫn chứng (Đoạn 9, 11 và
12 của chuẩn mực kế toán số 21) cho thấy BCTC phải trình bày một cách trung thực
và hợp lý tình hình tài chính, kết quả kinh doanh và các luồng tiền của doanh
nghiệp. Để lập và trình bày BCTC trung thực và hợp lý, doanh nghiệp phải lựa chọn
và áp dụng các chính sách kế toán phù hợp với các quy định; trình bày các thông
tin, kể cả chính sách kế toán, nhằm cung cấp thông tin phù hợp, đáng tin cậy, so
sánh đƣợc và dễ hiểu; Cung cấp các thông tin bổ sung khi quy định trong chuẩn
mực kế toán không đủ để giúp cho ngƣời sử dụng hiểu đƣợc tác động của những
giao dịch hoặc sự kiện cụ thể đến tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của
doanh nghiệp. Để đánh giá chất lƣợng BCTC sẽ xem xét cụ thể dựa trên từng yêu
cầu của chuẩn mực kế toán số 21 (VAS21) bao gồm: Tính trung thực, hợp lý; tính
thích hợp; tính đáng tin cậy và tính dễ hiểu. Để đạt đƣợc các yêu cầu trên, khi lập và
trình bày BCTC cần tuân thủ các nguyên tắc: Hoạt động liên tục, cơ sở dồn tích,
nhất quán, trong yếu và tập hợp, bù trừ và có thể so sánh đƣợc. Việc tuân thủ một
cách hài hòa các nguyên tắc trên sẽ giúp đảm bảo các đặc điểm chất lƣợng của
BCTC, nâng cao tính hữu ích cho các thông tin trình bày trên BCTC, hỗ trợ đắc lực
cho ngƣời sử dụng trong việc ra quyết định.
Hà Xuân Thạch và Nguyễn Trọng Nguyên (2014), nghiên cứu các nhân tố bên
trong tác động đến chất lƣợng thông tin BCTC tại 195 CTNY tại Việt Nam, phƣơng
pháp để đo lƣờng chất lƣợng thông tin BCTC đƣợc nhóm tác giả sử dụng là kế thừa
phƣơng pháp của Ferdy van Beest (2009) dựa trên quan điểm của FASB và IASB
12
và nghiên cứu của Jonas và Blanchet (2000), gồm 16 biến quan sát thuộc 5 đặc tính
để đo lƣờng chất lƣợng thông tin BCTC: Thích hợp; Trình bày trung thực; Dễ hiểu;
Có thể so sánh và kịp thời. Kết quả nghiên cứu cho thấy chất lƣợng thông tin BCTC
của các công ty niêm yết là dƣới mức trung bình.
Nguyễn Phúc Sinh (2008), luận án tiến sỹ với đề tài “Nâng cao tính hữu ích
trong BCTC doanh nghiệp Việt Nam hiện nay”, trong nghiên cứu này tác giảđề cập
đến vai trò và tính hữu ích của BCTC doanh nghiệp. Tác giả dựa trên nền tảng lý
thuyết của quốc tế và thực tiễn kế toán Việt Nam để phân tích, đánh giá thực trạng
cung cấp thông tin của BCTC doanh nghiệp Việt Nam tại thời điểm nghiên cứu; từ
đó đề xuất các giải pháp nhằm chuẩn hóa BCTC và nâng cao tính hữu ích của
BCTC.
Nguyễn Bích Liên (2012), luận án tiến sỹ với đề tài “Xác định và kiểm soát
các nhân tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng thông tin kế toán trong môi trƣờng ứng dụng
hệ thống hoạch định nguồn lực doanh nghiệp (ERP) tại các doanh nghiệp Việt
Nam”. Trong nghiên cứu này, tác giả cho rằng quan điểm của IASB, FASB và
chuẩn mực kế toán Việt Nam đều cho rằng chất lƣợng thông tin kế toán đồng nghĩa
với chất lƣợng BCTC. Quan điểm chất lƣợng thông tin tác giả đƣa ra trong môi
trƣờng ứng dụng công nghệ thông tin đƣợc xác định bằng các tiêu chuẩn: hữu hiệu,
hiệu quả, bảo mật, toàn vẹn, sẵn sàng, tuân thủ và đáng tin cậy. Trong khi đó, các
tiêu chuẩn chất lƣợng thông tin theo chuẩn mực kế toán thì nằm ngoài phạm vi
nghiên cứu của tác giả. Nghiên cứu này, tác giả chủ yếu tập trung vào việc ứng
dụng công nghệ thông tin trong công tác kế toán nói chung chứ không chú trọng
vào chất lƣợng BCTC.
Cao Nguyễn Lệ Thƣ (2014), nghiên cứu: “Đánh giá các nhân tố bên trong
doanh nghiệp tác động đến chất lƣợng TTKT trên BCTC của các CTNY ở sở giao
dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh, nghiên cứu áp dụng mô hình của Jouini Fathi
(2013) để đánh giá chất lƣợng TTKT gồm 78 chỉ số trình bày trong 7 thông tin cơ
bản: Thông tin chung và chiến lƣợc; Thông tin về BCTC; Các dữ liệu xã hội và môi
trƣờng; Quản trị doanh nghiệp; Thông tin tài chính và thị trƣờng; Thông tin dự báo
13
và Thông tin khác. Kết quả cho thấy chất lƣợng thông tin BCTC của các CTNY đạt
mức 80,9% tƣơng đƣơng 63/78 chỉ số, tuy nhiên tác giả chƣa đƣa ra kết luận chung
là chất lƣợng thông tin BCTC của các CTNY đã thật sự đạt ngƣỡng chất lƣợng hay
chƣa.
Nguyễn Anh Hiền và cộng sự (2015), nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận
ảnh hƣởng đến chất lƣợng BCTC tại 380 CTNY ở Việt Nam năm 2013-2014,
nghiên cứu ứng dụng mô hình Dechow et al (1995), Kothari, Leone and Wasley
(2005) để nhận diện hành vi điều chỉnh lợi nhuận. Kết quả nghiên cứu cho thấy,
thông qua kiểm định phân tích phƣơng sai có bằng chứng các doanh nghiệp gặp khó
khăn trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhƣ: doanh nghiệp ngành xây dựng, vật
liệu xây dựng và bất động sản thì động cơ điều chỉnh lợi nhuận của nhà quản lý sẽ
cao hơn các doanh nghiệp khác. Bên cạnh kết quả còn cho thấy có sự khác biệt giữa
mức độ điều chỉnh lợi nhuận giữa hai sàn chứng khoán là HOSE và HNX, các
CTNY trên sàn GDCK HNX có mức độ điều chỉnh cao hơn so với các CTNY trên
HOSE. Điều này ít nhiều ảnh hƣởng đến chất lƣợng BCTC của các doanh nghiệp
này.
Huỳnh Thị Vân (2012): “Nghiên cứu hành vi điều chỉnh lợi nhuận ở các công
ty cổ phần trong năm đầu niêm yết trên thị trƣờng chứng khoán Việt Nam”. Trong
luận văn thạc sỹ này, tác giả tập trung chủ yếu vào năm đầu tiên các công ty niêm
yết. Nghiên cứu sử dụng phƣơng pháp định tính với số liệu trên BCTC trong giai
đoạn 2008-2010 của các doanh nghiệp niêm yết lần đầu tại Sở giao dịch chứng
khoán TP.HCM và Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội. Trong nghiên cứu này, tác
giả sử dụng mô hình DeAngelo (1986) và mô hình Friedlan (1994). Trong nghiên
cứu này, tác giả đã đƣa ra ba nhân tố tác động đến hành vi điều chỉnh lợi nhuận của
các doanh nghiệp niêm yết gồm: năm đầu niêm yết, ƣu đãi thuế và quy mô doanh
nghiệp. Khảo sát của tác giả cho thấy phần lớn các công ty niêm yết năm đầu tiên
đều có hành vi điều chỉnh tăng lợi nhuận, đồng thời điều chỉnh tăng lợi nhuận trong
năm đầu niêm yết có quan hệ cùng chiều với các ƣu đã về thuế thu nhập doanh
14
nghiệp. Tác giả cũng đề xuất một số kiến nghị để tăng tính trung thực của chỉ tiêu
lợi nhuận trên BCTC.
1.2.2. Các nghiên cứu liên quan đến nhân tố ảnh hƣởng đến chất lƣợng thông
tin trên BCTC
1.2.2.1. Các yếu tố bên ngoài
Phan Đức Dũng (2014), qua nghiên cứu đo lƣờng các yếu tố ảnh hƣởng đến
thông tin trên BCTC của doanh nghiệp. Thông qua phƣơng pháp nghiên cứu hỗn
hợp với 280 mẫu là những ngƣời làm kế toán ở nhiều công ty cổ phần khác nhau,
tác giả đã đề xuất và kiểm định các nhân tố có ảnh hƣởng đến chất lƣợng thông tin
trên BCTC của doanh nghiệp, trong đó nhân tố bên ngoài có ảnh hƣởng đáng kể là:
Chính sách Thuế Nhà nƣớc. Kết quả nghiên cứu cho thấy chính sách thuế Nhà nƣớc
hợp lý đƣợc đánh giá là quan trọng nhất và có tác động cùng chiều với chất lƣợng
thông tin trên BCTC. Kết quả này phù hợp với nghiên cứu của Phan Minh Nguyệt
(2014), nghiên cứu: “Xác định và đo lƣờng mức độ ảnh hƣởng của các nhân tố đến
chất lƣợng TTKT trình bày trên BCTC của các CTNY ở Việt Nam”, cho thấy rằng
các phần lớn các CTNY hiện nay khi lập BCTC đều lập theo mục tiêu thuế chứ
không tuân thủ theo đúng quy định thuế hiện hành. Vì vậy muốn nâng cao chất
lƣợng thông tin kế toán trên BCTC thì cần phải thực hiện tốt chính sách thuế với
nhà nƣớc.
Võ Văn Nhị và Trần Thị Thanh Hải (2013), nghiên cứu “Một số ý kiến về chất
lƣợng BCTC của DNNVV ở Việt Nam” qua phƣơng pháp nghiên cứu tổng hợp lý
thuyết và đúc kết từ thực tiễn, nhóm tác giả đã xác định hai nhân tố bên ngoài có
ảnh hƣởng đến chất lƣợng BCTC của các DNNVV là: Khung pháp lý về kế toán
cho DNNVV; Đối tƣợng sử dụng thông tin và nhu cầu thông tin. Nhóm tác giả đã
cho rằng hiện nay khung pháp lý về kế toán cho DNNVV có nhiều hạn chế. Các
quy định trong luật kế toán chƣa lƣu ý đến đặc điểm riêng của doanh nghiệp này.
Về chuẩn mực, việc tinh giảm bớt yêu cầu áp dụng bộ chuẩn mực kế toán chung chỉ
là giải pháp tạm thời. Về chế độ kế toán đã đƣợc ban hành riêng cho DNNVV
nhƣng thực chất là cắt xén từ chế độ kế toán theo quyết định 15 và tính pháp lý của
15
văn bản này không cao. Sự cộng hƣởng từ các yếu tố này mang lại BCTC với chất
lƣợng thông tin chƣa thỏa mãn nhu cầu ngƣời sử dụng. Bên cạnh đó nếu đa dạng
hóa đối tƣợng sử dụng thông tin và đƣa ra yêu cầu thông tin có chất lƣợng cao thì
vấn đề chất lƣợng này sẽ đƣợc quan tâm và trở nên quan trọng.
Võ Văn Nhị (2011), qua nghiên cứu giải pháp nâng cao chất lƣợng thông tin
và chất lƣợng công bố thông tin kế toán của các doanh nghiệp niêm yết trên thị
trƣờng chứng khoán Việt Nam. Kết quả nghiên cứu, từ việc phân tích và đánh giá
thực trạng các quy định pháp lý liên quan về kế toán áp dụng cho các doanh nghiệp
ở Việt Nam nhƣ luật kế toán, chuẩn mực và chế độ kế toán cho thấy rằng, cần nâng
cao chất lƣợng những nội dung này để tăng chất lƣợng thông tin kế toán của doanh
nghiệp.
Trần Việt Hùng (2014), nghiên cứu những thuận lợi và khó khăn để chuẩn
mực kế toán Việt Nan (VAS) hội tụ chuẩn mực kế toán quốc tê (IFRS), qua việc
phân tích những lợi ích và ƣu điểm của IFRS tác giả cũng có dẫn chứng các quan
điểm của các nhà nghiên cứu trên thế giới về chất lƣợng thông tin kế toán để đạt
đƣợc một hệ thống kế toán chất lƣợng cao thì BCTC phải dựa trên các tiêu chuẩn
IFRS, nó đƣợc xem nhƣ là ngôn ngữ chung tạo điều kiện trao đổi thông tin kế toán
BCTC của những nhà đầu tƣ nƣớc ngoài và ngƣợc lại, việc áp dụng IFRS giúp cho
việc cung cấp thông tin kế toán với mức độ tin cậy cao hơn, giảm thiểu sự bất đối
xứng thông tin giữa các bên có liên quan.
1.2.2.2. Các yếu tố bên trong
Trần Phƣớc và cộng sự (2014), nghiên cứu về cơ sở văn hóa Việt Nam ảnh
hƣởng đến chất lƣợng thông tin trên BCTC doanh nghiệp tại Việt Nam. Thông qua
phƣơng pháp nghiên cứu hỗn hợp nhằm nhận diện và kiểm định các nhân tố thuộc
cơ sở văn hóa có ảnh hƣởng đến chất lƣợng thông tin kế toán bao gồm: Tính cộng
đồng; Tính trọng tĩnh; Tính cẩn trọng; Sự tôn trọng thứ bậc thủ tiêu vai trò của cá
nhân. Qua phân tích EFA và hồi quy tuyến tính bội kết quả của nghiên cứu cho thấy
4 nhân tố tác động nhất định đến chất lƣợng thông tin trên BCTC, đó là: Tính cộng
đồng; Tính cẩn trọng; Tự do thể hiện và tính trọng tĩnh.
16
Hà Xuân Thạch và Nguyễn Trọng Nguyên (2014), nghiên cứu các nhân tố bên
trong tác động đến chất lƣợng thông tin BCTC tại 195 CTNY tại Việt Nam, nhóm
tác giả đề xuất các nhân tố bên trong có ảnh hƣởng đến chất lƣợng thông tin BCTC
gồm: Tính độc lập của HĐQT; Chuyên môn thành viên độc lập của HĐQT; Số
lƣợng cuộc họp HĐQT; Tính độc lập của BKS; Chuyên môn của thành viên BKS.
Qua phân tích hồi quy tuyến tính bội kết quả cho thấy rằng ngoại trừ nhân tố “Tính
độc lập của BKS”, các nhân tố khác đều tác động đáng kể đến chất lƣợng thông tin
BCTC.
Võ Văn Nhị và Nguyễn Đình Hùng (2009) bài báo khoa học “Quản trị công ty
và sự minh bạch thông tin tài chính của công ty niêm yết”, trong bài viết này các tác
giả đã tóm tắt những nghiên cứu về sự tác động của quản trị công ty đến tính minh
bạch của thông tin tài chính, từ đó tác giả đƣa ra mô hình lý thuyết về mối tƣơng
quan giữa quản trị công ty và sự minh bạch thông tin tài chính. Các tác giả đã cho
thấy do việc quản trị công ty chƣa đƣợc thực hiện đồng bộ giữa các doanh nghiệp
dẫn đến thiếu minh bạch của thông tin tài chính.
Cao Nguyễn Lệ Thƣ (2014), nghiên cứu: “Đánh giá các nhân tố bên trong
doanh nghiệp tác động đến chất lƣợng TTKT trên BCTC của các CTNY ở sở giao
dịch chứng khoán Tp. Hồ Chí Minh, tác giả đề xuất 11 nhân tố đƣợc cho là có ảnh
hƣởng đến chất lƣợng TTKT trên BCTC trong mô hình kiểm định của mình bao
gồm: (1) Quy mô doanh nghiệp; (2) Thời gian hoạt động của doanh nghiệp; (3) Cấu
trúc vốn của nhà nƣớc; (4) Tác biệt chức danh chủ tịch HĐQT và Tổng giám đốc;
(5) Tỷ lệ thành viên độc lập HĐQT; (6) Quy mô HĐQT; (7) Sự tồn tại của BKS; (8)
Khả năng sinh lời; (9) Đòn bẩy tài chính; (10) Khả năng thanh toán hiện hành; (11)
Tỷ lệ tài sản cố định. Kết quả kiểm định mô hình của nghiên cứu cho thấy chất
lƣợng TTKT trên BCTC của các CTNY trên SGDCK TP.HCM bị ảnh hƣởng bởi 3
nhân tố: Quy mô của doanh nghiệp, tỷ lệ thành viên HĐQT không điều hành của
doanh nghiệp, kết cấu vốn của nhà nƣớc.
Phan Minh Nguyệt (2014), nghiên cứu: “Xác định và đo lƣờng mức độ ảnh
hƣởng của các nhân tố đến chất lƣợng TTKT trình bày trên BCTC của các CTNY ở