Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.55 MB, 71 trang )
Trái đất lồi lên xa tâm hơn tạo thành bề mặt lồi lõm luôn luôn thẳng hướng với
trọng lực.
2.2. Kích thước
Các số liệu đo tính chính xác nhất về kích thước của Trái đất đã được nhà
trắc địa học Xô Viết F.N.Kraxôpxki công bố năm 1942 là:
Bán kính xích đạo a: 6378,160 km
Bán kính cực b: 6356,777 km
Độ dẹt ở cực: (a- b) : a = 1/ 298 hay 21,36 km
Độ dẹt ở xích đạo: 1/ 30000 hay 213 m
Chiều dài đường xích đạo (chu vi): 40075,7 km
Chiều dài vòng kinh tuyến: 40008,5 km
Diện tích bề mặt Trái đất: 510,2 triệu km2
Thể tích:1083 tỷ m3
2.3. Ý nghĩa địa lí của hình dạng và kích thước Trái đất
Do Trái đất có dạng hình cầu nên Mặt trời không thể chiếu sáng một lúc
cho mọi nơi trên Trái đất mà chỉ một nửa được chiếu sáng là ban ngày và một nửa
chìm trong bóng tối là ban đêm cùng với sự tự quay quanh trục của Trái đất làm
cho nhịp điệu ngày đêm liên tục xảy ra, lớp vỏ địa lí đã điều hoà nhiệt độ.
Các tia sáng chiếu xuống xích đạo tạo góc nhập xạ 90 o từ xích đạo về 2 cực
thì góc nhập xạ nhỏ dần. Vì vậy, năng lượng Mặt trời mà mặt đất tiếp thu được
giảm dần từ xích đạo về 2 cực tạo nên sự phân bố tương tự của chế độ nhiệt. Đó là
nguyên nhân chính dẫn đến sự hình thành các vành đai khí hậu và tính địa đới của
các yếu tố địa lí. Dạng hình cầu đối xứng qua mặt phẳng xích đạo hình thành hai
nửa cầu bán cầu Bắc và Nam.
Do có dạng hình cầu, Trái đất chứa được lượng vật chất tối đa và nhờ có
khối lượng, kích thước tương đối nên Trái đất đã hình thành và di chuyển xung
quanh nó một lớp khí quyển. Điều này vô cùng quan trọng vì nó quyết định khả
năng xuất hiện và tồn tại sự sống trên bề mặt Trái đất cũng như tạo điều kiện để
diễn ra các quá trình trong vòng tuần hoàn vật chất và năng lượng trên Trái đất.
2.4. Cấu tạo của Trái đất
Nghiên cứu sự thay đổi của sóng địa chấn lan truyền trong lòng Trái đất,
người ta đã biết được Trái đất có cấu trúc gồm nhiều lớp.
2.4.1. Lớp vỏ Trái đất
Vỏ Trái đất là lớp vỏ mỏng bao bọc bên ngoài của Trái đất có độ dày dao
động từ 5 km (ở đại dương) đến 70 km (ở lục địa). Thành phần vật chất của lớp vỏ
Trái đất chủ yếu gồm hy-đrô, si-líc, nhôm, sắt, can-xi, na-tri. Lớp vỏ Trái đất có
cấu tạo không đồng nhất có hai kiểu chính là:
Kiểu vỏ lục địa: có cấu tạo ba tầng là các tầng trầm tích, gra-nít và ba-zan.
Kiểu vỏ đại dương: có cấu tạo hai tầng là các tầng trầm tích và ba-zan,
trong đó tầng trầm tích rất mỏng.
Ngoài ra còn có kiểu vỏ chuyển tiếp thường quan sát thấy ở các khu biển
rìa lục địa hoặc biển nội địa.
Vỏ Trái đất chỉ chiếm khoảng 15% về thể tích và khoảng 1% trọng lượng
của Trái đất nhưng có vai trò rất quan trọng đối với thiên nhiên và đời sống con
người.
2.4.2. Lớp man-ti
Dưới vỏ Trái đất cho tới độ sâu 2900 km là lớp man-ti (còn gọi là bao man-ti).
Lớp này gồm hai tầng chính. Càng vào sâu, nhiệt độ và áp suất càng lớn nên trạng
thái vật chất của bao man-ti có sự thay đổi quánh dẻo ở tầng trên và rắn ở tầng dưới.
Vỏ Trái đất và phần trên cùng của lớp man-ti (đến độ sâu 1000 km) vật chất
ở trạng thái cứng người ta thường gộp vào gọi chung là thạch quyển. Thạch quyển
di chuyển trên một lớp mềm của bao man-ti như các mảng nổi trên mặt nước.
2.4.3. Nhân Trái đất
Nhân Trái đất là lớp trong cùng dày khoảng 3470 km. Ở đây nhiệt độ và áp
suất lớn hơn so với các lớp khác, từ 2900 km đến 5100 km là nhân ngoài, nhiệt độ
khoảng 5000oC, áp suất từ 1,3 đến 3,5 triệu atm, vật chất tồn tại trong trạng thái
lỏng. Từ 5100 km đến 6370 km là nhân trong, áp suất từ 1,3 đến 3,5 triệu atm vật
chất ở trạng thái rắn. Thành phần vật chất chủ yếu của nhân Trái đất là những kim
loại nặng như ni-ken (Ni), sắt (Fe) nên gọi là nhân NiFe.
3. Các chuyển động của Trái đất và hệ quả của nó
3.1. Chuyển động tự quay quanh trục và hệ quả của nó
3.1.1. Chuyển động tự quay quanh trục
Hình 1.1 Chuyển động tự quay quanh trục của Trái đất
Các nhà thiên văn học cổ đại đều cho Trái đất là trung tâm của Vũ trụ, Mặt
trời và các vì sao đều quay quanh Trái đất sinh ra ngày và đêm. Quan niệm đó
được nhà thiên văn học Ptô-lê-mê lập thành học thuyết "Thuyết địa tâm hệ". Cuối
thế kỉ XV Cô-Per-nic (Ba Lan) đã nhận thức đúng đắn về các vận động của Trái
đất và vị trí của Trái đất trong hệ Mặt trời, lập nên học thuyết "Nhật tâm hệ".
Năm 1851, Nhà vật lý người Pháp (Foucallt) đã dùng một con lắc nặng 28
kg dài 40m treo trong cung điện Pantheon ở Pa-ri để làm một thí nghiệm nổi tiếng
chứng minh hiện tượng tự quay của Trái đất. Ông đã để dưới con lắc một bàn cát
và cho quả lắc dao động theo một hướng nhất định. Sau một thời gian, mặt phẳng
dao động của quả lắc hình như chuyển hướng và vạch trên bàn cát những đường
chéo với đường thẳng vạch ban đầu, những đường chéo đó chuyển dần từ đông
sang tây. Theo nguyên lý cơ học thì mặt phẳng dao động của quả lắc không bao
giờ bị đổi hướng, vậy điều đó chứng tỏ Trái đất tự quay quanh trục theo hướng
ngược lại tức là từ tây sang đông. Trái đất quay một vòng hết 23h56'4''(một ngày
đêm).
Bảng 1.2 Tốc độ góc quay của Trái đất
Vĩ độ
Vận tốc quay (m/s)
0o
464
20o
437,7
40o
355,4
60o
232
90o
0
3.1.2. Hệ quả
3.1.2.1. Sự luân phiên ngày, đêm
Hình khối cầu của Trái đất luôn được Mặt trời chiếu sáng một nửa, còn một
nửa không được chiếu sáng, vì thế sinh ra ngày và đêm. Tuy nhiên, do Trái đất tự
quay quanh trục nên mọi nơi ở bề mặt Trái đất đều lần lượt được Mặt trời chiếu
sáng rồi lại chìm trong bóng tối, gây nên hiện tượng luân phiên ngày và đêm. Nhịp
điệu ngày đêm kế tiếp làm cho sự phân phối bức xạ Mặt trời trên bề mặt Trái đất
được điều hoà. Sự chênh lệch nhiệt độ không lớn giữa ngày và đêm có ý nghĩa rất
lớn về mặt địa lí nói chung và khí hậu nói riêng.
3.1.2.2. Mạng lưới toạ độ trên Trái đất
Sự vận động tự quay quanh trục đã tạo cơ sở cho việc xây dựng mạng lưới
toạ độ để xác định vị trí các địa điểm. Khi tự quay các điểm trên bề mặt Trái đất
đều di chuyển vị trí chỉ có hai điểm quay tại chỗ đó là hai cực: cực Bắc và cực
Nam.
Đường thẳng tưởng tượng đi qua tâm Trái đất được gọi là trục Trái đất,
Trục nghiêng với mặt phẳng hoàng đạo một góc 66o33'.
Vòng xích đạo là vòng tròn lớn thẳng góc với trục Trái đất chia Trái đất
thành hai nửa: nửa cầu Bắc và nửa cầu Nam.
Vĩ tuyến là những vòng tròn song song với đường xích đạo.