Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.43 MB, 286 trang )
3. Tiểu khí hậu: Là khí hậu một vùng
lãnh thổ nào đó( một tỉnh hoặc một
thành phố). Tiểu khí hậu có thể cải tạo
bằng giải pháp nhân tạo, tạo hệ sinh
thái (rừng cây, hồ nước)
4. Vi khí hậu (micro climate): là khí hậu
bao quanh một không gian hẹp của nơi
làm việc và sinh hoạt của con người,
sinh vật ảnh hưởng trực tiếp đến trạng
thái cảm giác nhiệt của con người, môi
trường sống của sinh vật. Phạm vi của
vi khí hậu có tính quy ước như: trong
một bộ quần áo, trong một phòng làm
việc, trong cabin xe...
Đặc điểm của vi khí hậu là phụ thuộc
vào thời tiết và khí hậu của nơi đó. Vi
khí hậu có thể cải tạo và thay đổi được.
Đối tượng nghiên cứu của vi khí hậu bao gồm
- Y học lao động: nghiên cứu bảo vệ con người
- Sinh thái học: nghiên cứu sự sinh trưởng của
các loài sinh vật
- Khoa học công nghệ: nghiên cứu về độ bền
của các vật liệu...
5. Các yếu tố của vi khí hậu:
- Nhiệt độ của không khí (t)
- Độ ẩm không khí (r)
- Chuyển động của không khí (v)
- Bức xạ nhiệt(R)
Các yếu tố này tác động lên trạng thái nhiệt
của cơ thể. Nhưng là tác động đồng thời và chi
phối lẫn nhau.
II. Các yếu tố vi khí hậu
1. Nhiệt độ không khí
.
a. Định nghĩa.
Nhiệt độ là thông số trạng thái trạng thái vật lý của
không khí,về định tính biểu thị sự nóng lạnh của vật
chất. Về bản chất biểu thị sự tiềm tàng năng lượng
của vật chất, năng lượng đó tỷ lệ với động năng của
các phân tử.
b. Nguyên nhân hình
thành nhiệt độ không khí:
Năng
lượng mặt trời chiếu xuống sẽ đốt nóng bề mặt trái
đất, bề mặt trái đất nóng lên bức xạ trở lại đốt nóng
không khí trên nó. Nhệt độ không khí ở mỗi khu vực
phụ thuộc 3 nhân tố chính: Chế độ mặt trời; Trạng
thái của địa hình mặt đất và hoàn lưu khí quyển.
Trong tầng khí quyển dưới thấp, gọi là tầng đối
lưu (11km trở xuống ), nhiệt độ giảm dần theo chiều
cao, giảm 0,6oc/100m lên cao. Ở vùng núi cao bức xạ
nhiệt vào ban đêm lớn nên nhiệt độ thường thâp hơn
so với địa điểm thấp hơn ở cùng một địa phương.
Tầng ngoài
Tầng nhiệt
Tầng trung lưu
Tầng bình lưu
Biểu đồ chiếu khí quyển trái đất
Tầng đối lưu
Minh hoạ các tầng khí quyển
Trên Trái Đất ( Tham khảo)
Tầng đối lưu bắt đầu từ bề mặt Trái Đất mở rộng ra đến cao độ 16-18 km
ở các vùng nhiệt đới, nhưng ít hơn 10 km ở các vùng cực. Lớp khí quyển
này chiếm khoảng 80% tổng khối lượng của toàn bộ khí quyển. Trong
khu vực tầng đối lưu thì không khí liên tục luân chuyển và tầng này là
tầng có mật độ không khí lớn nhất của khí quyển Trái Đất. Nitơ và ôxy là
các chất khí chủ yếu có mặt trong tầng này. Tầng đối lưu nằm ngay phía
dưới tầng bình lưu.
Tầng đối lưu được chia thành 6 khu vực luồng luân chuyển theo đới, gọi
là các ngăn. Các ngăn này chịu trách nhiệm cho lưu thông khí quyển và
tạo ra các hướng gió thịnh hành.
Trong tầng đối lưu, nhiệt độ giảm theo độ cao, tại các vĩ độ trung bình,
từ khoảng +17°C tại mực nước biển tới khoảng -52 °C tại đỉnh tầng đối
lưu. Tại các cực thì tầng đối lưu mỏng hơn và nhiệt độ chỉ giảm xuống tới
-45 °C, trong khi tại vùng xích đạo thì nhiệt độ có thể xuống tới -75 °C.
Nguyên nhân các biến đổi nhiệt độ trong tầng đối lưu là do nhiệt độ được
xác định bởi bức xạ nhiệt từ mặt đất ngược trở lại không khí. Mặc dù tia
nắng Mặt Trời tiếp xúc với phần không khí ở trên cao trước, nhưng không
khí khá trong suốt nghĩa là nó hấp thụ rất ít năng lượng của tia nắng. Đa
phần năng lượng Mặt Trời rơi xuống mặt đất, tại đây, nó bị hấp thụ mạnh
bởi mặt đất, và làm mặt đất nóng lên (nóng hơn không khí trên cao).
Mặt đất nóng truyền nhiệt trực tiếp cho lớp không khí gần mặt đất;
không khí gần mặt đất nóng lên và nở ra, nhẹ hơn phần không khí lạnh ở
trên và bay lên cao nhờ lực đẩy Ácsimét. Khi không khí nóng bay lên cao,
nó giãn nở đoạn nhiệt nghĩa là thể tích tăng và nhiệt độ giảm (giống như
cách hoạt động của một số tủ lạnh, máy điều hòa). Càng lên cao, không
khí càng nguội dần. Khi ra xa khỏi bề mặt Trái Đất thì nhiệt đối lưu có
các hiệu ứng nhỏ hơn và không khí lạnh hơn. Ở các cao độ lớn hơn thì
không khí loãng hơn và giữ nhiệt kém hơn, khiến cho nhiệt bị tản đi hết.
Cứ mỗi khi độ cao tăng lên 1.000 mét thì nhiệt độ lại giảm trung bình
khoảng 6,4°C.
Mặc dù việc nhiệt độ giảm theo độ cao là xu hướng
chung trong tầng đối lưu, thực tế đôi khi có ngoại lệ, gọi
là hiện tượng nghịch nhiệt. Ví dụ ở châu Nam Cực, nhiệt
độ tăng khi lên cao. Một ví dụ khác, hàng năm, xung
quanh Hà Nội, Việt Nam, về đầu mùa đông có những đợt
nghịch nhiệt về ban đêm, thường xảy ra vài ngày sau khi
gió mùa đông bắc tràn về và kéo dài cho đến khi gió
thịnh hành chuyển sang hướng đông nam và lặp lại khi
có đợt gió mùa mới. Trong điều kiện nghịch nhiệt, khí
thải từ hoạt động công nghiệp và nông nghiệp bị ứ đọng
ở tầng thấp, không tỏa đi được, do chúng lạnh và nặng
hơn các lớp khí bên trên.
Đỉnh tầng đối lưu đánh dấu giới hạn của tầng đối lưu và
nó được nối tiếp bằng tầng bình lưu. Nhiệt độ ở phía trên
đỉnh tầng đối lưu lại tăng lên chậm cho tới cao độ
khoảng 50 km. Nói chung, các máy bay phản lực bay ở
gần phần trên cùng của tầng đối lưu. Hiệu ứng nhà kính
cũng diễn ra trong lớp trên cùng tầng đối lưu.
Trên Sao Hỏa
Trên Sao Hỏa, tầng đối lưu cao đến 40 km với
nhiệt độ giảm dần theo độ cao. Tại ranh giới giữa
tầng đối lưu và bình lưu, nhiệt độ tương đối ổn
định khoảng 120K. Lượng bụi lớn trong khí quyển
Sao Hỏa đã đẩy cao tầng đối lưu lên như vậy (so
với khí quyển Trái Đất chỉ khoảng 10 đến 18 km).
Ở tầng đối lưu, hai thành phần chính quyết định
cấu trúc khí quyển là CO2 và bụi khí quyển. CO2
bức xạ nhanh nhiệt ra không trung, tại điều kiện
nhiệt độ của Sao Hỏa, làm nguội nhanh khí quyển
vào ban đêm. Các hạt bụi hấp thụ tốt năng lượng
Mặt Trời và phân phối đều nhiệt lượng trong tầng
đối lưu. Trong những đợt bão bụi, ảnh hưởng của
bụi càng rõ, làm thay đổi nhiệt độ ngày đêm đáng
kể.
Sự thay đổi nhiệt độ ở tầng đối lưu, trên phạm vi
toàn Sao Hỏa, tuân theo dao động ngày đêm đều
đặn, đồng bộ với vị trí Mặt Trời, đôi khi gọi là
"thủy triều nhiệt".
Nhiệt độ biến thiên theo giờ trong ngày do
bức xạ mặt trời chiếu xuống mặt đất cũng
theo chu kì trong ngày Tuy mặt trời bức xạ
xuống mặt đất cực đại là 12 giờ trưa nhưng bề
mặt trái đất cũng như không khí có tính ổn
định về nhiệt nên nhiệt độ không khí cực đại
lại xuất hiện chậm vào lúc 1-3 giờ. Nhìn chung
vĩ độ càng thấp thì lượng bức xạ ban ngày
càng lớn. Tuy nhiên không phải nơi nào cũng
tuân theo quy luật này. ở miền núi cao về ban
đêm lượng nhiệt phát xạ của mặt đất lớn,
nhiệt độ mặt đất giảm đi nhanh,nên biến thiên
nhiệt trong ngày lớn hơn vùng đồng bằng,
nhất là so với vùng ven biển.