1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Quản lý >

Như vậy, vốn sản xuất kinh doanh là gì ?

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (348.98 KB, 73 trang )


nguyên vật liệu, máy móc, thiết bị, nhà xưởng,... trong hoạt động sản xuất kinh

doanh của các doanh nghiệp.

Thứ hai : Vốn vận động phải sinh lời. Ban đầu vốn được biểu hiện bằng một

lượng tiền nhất định, trong quá trình vận động vốn tồn tại dưới nhiều hình thái vật

chất khác nhau. Tuy nhiên, điểm xuất phát và điểm cuối cùng của quá trình tuần

hoàn vốn đều được biểu hiện bằng tiền,



nhưng để bảo toàn và sử dụng vốn có



hiệu quả thì đồng vốn bỏ ra phải nhỏ hơn hoặc bằng số tiền thu về.

Thứ ba : Vốn có giá trị về mặt thời gian. Trong cơ chế thị trường như hiện

nay thì đặc trưng này thể hiện rất rõ, đồng vốn bỏ ra luôn chịu ảnh hưởng của các

yếu tố lạm phát, giảm phát, khủng hoảng, tiến bộ khoa học kỹ thuật,... nên giá trị

của các đồng vốn tại các thời điểm khác nhau là khác nhau.

Thứ tư : Vốn phải gắn với chủ sở hữu. Trong nền kinh tế thị trường mỗi

đồng vốn bao giờ cũng gắn với chủ sở hữu nhất định. Người sử dụng vốn có thể

chưa chắc là người chủ sở hữu vốn do có sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền

sử dụng vốn. Điều này còn đòi hỏi mỗi người sử dụng vốn phải có trách nhiệm với

đồng vốn mà mình đang nắm giữ và sử dụng.

Thứ năm : Vốn không chỉ là biểu hiện bằng tiền của các loại tài sản hữu hình

có hình thái vật chất cụ thể trong doanh nghiệp mà còn được biểu hiện bằng các

loại tài sản vô hình như các lợi thế thương mại, bằng phát minh sáng chế, nhãn

hiệu, các bí quyết công nghệ được bảo hộ.

Như vậy, khái niệm chung của vốn kinh doanh như sau :

Vốn kinh doanh của doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ tài sản

hữu hình và tài sản vô hình trong doanh nghiệp được đầu tư vào kinh doanh nhằm

mục đích sinh lời.

1.1.2- Phân loại :

Có nhiều cách phân loại về vốn kinh doanh như :



4







Căn cứ vào đặc điểm luân chuyển vốn : Vốn kinh doanh được chia



làm hai loại :





Vốn cố định : là một bộ phận của vốn đầu tư biểu hiện về mặt giá trị



của tất cả các TSCĐ trong doanh nghiệp mà đặc điểm của nó là luân chuyển dần

dần từng phần trong nhiều chu kỳ sản xuất kinh doanh và hoàn thành một vòng

tuần hoàn khi TSCĐ hết thời hạn sử dụng. Sau đó TSCĐ có thể được thanh lý hay

huỷ bỏ.





Vốn lưu động : Là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh trong



doanh nghiệp, được biểu hiện bằng tiền của toàn bộ giá trị tài sản lưu động và vốn

lưu động để đảm bảo cho quá trình sản xuất và tái sản xuất của doanh nghiệp được

thực hiện. Vốn lưu động tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh dưới nhiều

hình thức khác nhau. Đặc điểm luân chuyển là chỉ tham gia vào một chu kỳ sản

xuất kinh doanh và toàn bộ giá trị sẽ chuyển dịch ngay vào giá trị sản phẩm sản

xuất ra.





Căn cứ vào quan hệ sở hữu : Theo cách phân loại này vốn kinh doanh



được chia làm hai loại đó là vốn chủ sở hữu và nợ phải trả.





Vốn chủ sở hữu: Là nguồn vốn thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp



bao gồm vốn để hình thành mọi loại tài sản trong doanh nghiệp, vốn điều lệ, vốn tự

bổ sung từ lợi nhuận sau thuế và từ các quỹ của doanh nghiệp. Đối với DNNN thì

vốn được bổ sung từ Ngân sách tức là Nhà nước là chủ sở hữu. Nguồn vốn này

được đánh giá là ổn định và mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nắm giữ nếu

biết sử dụng hợp lý.





Nợ phải trả : Là các khoản nợ phát sinh trong quá trình doanh nghiệp



tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp có trách nhiệm phải

hoàn trả cả vốn gốc và lãi vay trong một thời gian nhất định, nguồn vốn này được

hình thành từ các khoản nợ vay ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác, các khoản

5



nợ người cung cấp, nợ công nhân viên, tiền vay do phát hành trái phiếu hoặc các

khoản nợ phải trả Nhà nước,...





Căn cứ theo phạm vi huy động vốn kinh doanh : Cũng được phân



thành hai loại là vốn bên trong và vốn bên ngoài doanh nghiệp.





Vốn bên trong doanh nghiệp : Là nguồn vốn có thể huy động được từ



hoạt động bên trong doanh nghiệp từ các nguồn như tiền khấu hao TSCĐ, lợi

nhuận để lại doanh nghiệp, các quỹ dự phòng, các khoản thu do thanh lý nhượng

bán TSCĐ,... Đây là nguồn vốn quan trọng đảm bảo khả năng tự chủ về tài chính

của doanh nghiệp.





Vốn bên ngoài doanh nghiệp : Là số vốn mà doanh nghiệp huy động



từ bên ngoài doanh nghiệp nhằm đáp ứng các yêu cầu của hoạt động sản xuất kinh

doanh của mình như vốn vay ngân hàng, các tổ chức tín dụng khác, phát hành trái

và các khoản nợ khác.

1.2- Nguồn hình vốn kinh doanh của doanh nghiệp.

Tạo ra nguồn vốn là tiền đề vật chất để thực hiện các mối quan hệ kinh tế -tài

chính của doanh nghiệp là một trong những giai đoạn quan trọng nhất trong quá

trình hoạt động của tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Do vậy,

vốn kinh doanh luôn đóng vai trò then chốt trong hoạt động của các doanh nghiệp.

Nguồn vốn kinh doanh của một doanh nghiệp thường được hình thành bằng các

nguồn khác nhau tuỳ theo loại hình, điều kiện và mục đích kinh doanh của từng

doanh nghiệp. Thông thường vốn kinh doanh của doanh nghiệp được huy động từ

các nguồn sau :

-



Vốn do Ngân sách Nhà nước cấp : Vốn này chỉ được cấp cho loại hình



DNNN. Bắt đầu từ khi có quyết định thành lập, DNNN cần một lượng vốn đầu tư

tối thiểu cần thiết. Trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh các

doanh nghiệp này thường được bổ sung thêm vốn nhằm đảm bảo hoạt động của

doanh nghiệp. Vốn do Ngân sách cấp được xác định trên biên bản giao nhận vốn

6



mà doanh nghiệp phải có trách nhiệm bảo toàn và phát triển nguồn vốn đã được

cấp.

-



Vốn liên doanh, liên kết : Đây là nguồn vốn do các doanh nghiệp khác



đóng góp nhằm cùng thực hiện các mục tiêu kinh tế đặt ra trong quá trình sản xuất

kinh doanh. Vốn góp tham gia lên doanh liên kết có thể bằng tiền, bằng các loại tài

sản cố định, vật tư hàng hoá hoặc các lợi thế về kinh doanh, mặt đất, mặt nước, mặt

phố,... Dựa trên cơ sở tự nguyện, các bên tham gia liên doanh sẽ đóng góp vốn theo

khả năng của mình, có trách nhiệm, được hưởng quyền lợi và chịu rủi ro theo phần

vốn góp.

-



Vốn tự bổ sung của doanh nghiệp : Trong quá trình hoạt động sản xuất



kinh doanh, doanh nghiệp luôn phải tích luỹ một lượng vốn để tái sản xuất giản đơn

hay tái sản xuất mở rộng quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy mà nguồn vốn do

doanh nghiệp tự bổ sung trong quá trình hoạt động đóng một vai trò quan trọng.

Lượng vốn tự bổ sung phụ thuộc vào kết quả hoạt động kinh doanh của doanh

nghiệp trong kỳ, thông qua việc phân bổ vào các quỹ của doanh nghiệp. Nguồn vốn

tự bổ sung trong quá trình kinh doanh chủ yếu dựa vào hai nguồn là lợi nhuận và

quỹ khấu hao của doanh nghiệp. Nguồn vốn tự bổ sung mang ý nghĩa rất quan

trọng do nó là cơ sở nhằm đánh giá khả năng tự chủ về mặt tài chính của doanh

nghiệp.

-



Nguồn vốn tín dụng : Thông thường nguồn vốn vay tín dụng là nguồn



vốn mà các doanh nghiệp sử dụng thường xuyên và nhiều nhất trong nền kinh tế.

Đây là nguồn vốn vay có khả năng đáp ứng đầy đủ yêu cầu của hoạt động SXKD

nhất là vốn để đáp ứng cho các nhu cầu của dự án đầu tư có quy mô lớn, thời gian

dài. Nguyên tắc cơ bản mà doanh nghiệp phải thực hiện khi sử dụng nguồn vốn này

là phải sử dụng đúng mục đích, và chứng minh được tính hiệu quả của dự án, phải

có tài sản đảm bảo và phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi đầy đủ và đúng thời hạn. Sử dụng

có hiệu quả nguồn vốn vay tín dụng trong giới hạn cho phép của hệ số nợ sẽ góp

7



phần phân tán bớt rủi ro trong hoạt động SXKD. Tuy nhiên, khi sử dụng nguồn

vốn này cần đánh giá, phân tích kỹ lưỡng tình hình tài chính cũng như đặc điểm

của từng nhu cầu nhằm đạt hiệu quả cao nhất, tránh tình trạng lệ thuộc quá nhiều

vào vốn vay.

-



Các nguồn vốn khác : Ngoài các nguồn vay chính trên, để đáp ứng yêu



cầu về tài trợ nguồn vốn ngắn hạn, doanh nghiệp cũng có thể vay vốn từ một số

nguồn như :





Tín dụng thương mại : Đây là một hình thức quan trọng trong việc đáp



ứng nhu cầu vốn ngắn hạn của doanh nghiệp. Bản chất của hình thức này chính là

việc chiếm dụng vốn hợp pháp của người khác trong một khoảng thời gian nhất

định. Nó xuất phát từ việc doanh nghiệp nhận được hàng hoá hoặc dịch vụ của nhà

cung cấp nhưng lại chưa phải trả tiền ngay, do vậy doanh nghiệp có thể sử dụng số

tiền phải trả đó như một nguồn vốn để tài trợ trong ngắn hạn. Quy mô của nguồn

vốn này phụ thuộc vào giá cả và số lượng của hàng hoá hay dịch vụ mà người bán

đã cung cấp. Sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại có ưu điểm là đơn giản,

thuận tiện. Nếu người cung cấp là bạn hàng quen biết thì khả năng đánh giá rủi ro

của nguồn vốn này là tương đối dễ dàng.





Sử dụng thương phiếu : Nhằm bổ sung thêm lượng vốn lưu động



trong doanh nghiệp. Đây là một trong những biện pháp thu hút được nguồn vốn

rộng rãi và chi phí là thấp nhất. Tuy nhiên, hình thức này phụ thuộc rất nhiều vào

độ tin cậy của người mua thương phiếu cũng như mức độ dư thừa vốn trong nền

kinh tế.

2- Sự cần thiết của việc nâng hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của

doanh nghiệp.

2.1- Vấn đề chung về nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh.



8



Hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị

trường luôn nhằm mục đích tối đa hoá lợi nhuận, không ngừng tăng giá trị doanh

nghiệp và khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường. Để đạt được điều

đó một vấn đề để đòi hỏi trước tiên là doanh nghiệp phải bảo toàn và nâng cao hiệu

quả sử dụng vốn kinh doanh của mình.

Bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh được

hiểu chung nhất là sự đảm bảo duy trì và nâng cao được giá trị thực tế doanh

nghiệp tại các thời điểm khác nhau trong quá trình tiến hành các hoạt động sản xuất

kinh doanh bất kể có sự biến động của giá cả trên thị trường.

Việc bảo toàn vốn kinh doanh ở các đơn vị kinh tế được thực hiện trong quá

trình sử dụng vốn vào mục đích đầu tư hay sản xuất kinh doanh là nhằm mục đích

đảm bảo cho các tài sản không bị mất mát, hao hụt hoặc hư hỏng trước thời hạn,

đảm bảo cho đồng vốn thường xuyên duy trì và nâng cao được giá trị của mình

trong quá trình sử dụng vốn. Việc bảo toàn vốn kinh doanh sẽ tỏ ra có hiệu quả khi

doanh nghiệp vẫn duy trì được năng lực sản xuất kinh doanh của mình trong các

tình huống kho khăn trên thị trường như thiếu nguyên vật liệu hay đồng tiền bị

trượt giá. Chế độ bảo toàn và phát triển vốn là tất yếu khách quan đối với mọi

doanh nghiệp trong quá trình tái sản xuất, đặc biết là việc bảo toàn và nâng cao

hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh của các doanh nghiệp trong điều kiện nền kinh tế

có lạm phát, giá cả thường xuyên biến động, do đó phải thường xuyên điều chỉnh

các loại vật tư hàng hoá theo hệ số trượt giá trên thị trường. Việc thực hiện bảo

toàn vốn trong doanh nghiệp cần chú ý các vấn đề cơ bản sau:

+ Không để vốn kinh doanh bị thất thoát trong quá trình tiến hành hoạt

động sản xuất kinh doanh như TSCĐ không sử dụng được do hư hỏng trước thời

hạn, vốn ứ đọng trong sản xuất do không tiêu thụ được sản phẩm, mất mát vật tư,

hàng hoá, vốn bị khách hàng chiếm dụng trong thanh toán quá nhiều.



9



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.doc) (73 trang)

×