Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 118 trang )
ngày một thông thoáng hơn, cạnh tranh tự do và bình đẳng hơn. Do vậy khuyến
khích các thành phần kinh tế tham gia và huy động đƣợc nhiều nguồn vào các hoạt
động kinh doanh, nhất là trong lĩnh vực du lịch.
Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ thực sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới vì
WTO là tổ chức gồm 151 thành viên, chiếm khoảng 90 tổng thƣơng mại dịch vụ
toàn cầu. Với những lợi thế do WTO mang lại, Việt Nam có điều kiện để tăng
cƣờng tiếp cận thị trƣờng của các nƣớc thành viên khác, mở rộng thị trƣờng du lịch,
thu hút ngày càng nhiều khách du lịch đến từ các nƣớc.
Sau khi gia nhập WTO, khả năng thu hút vốn FDI của ta ngày càng đƣợc cải
thiện, trong đó có một nguồn lớn vốn đầu tƣ vào lĩnh vực du lịch. Đây là nguồn vốn
quan trọng để phát triển ngành du lịch nƣớc ta theo kịp trình độ của các nƣớc trong
khu vực và trên thế giới. WTO đang mở ra những viễn cảnh đầu tƣ mới. Hiện tại
nhiều tập đoàn kinh tế mới đang hƣớng sự chú ý đến Việt Nam và sẽ “đổ bộ” vào
đầu tƣ đón đầu trong lĩnh vực du lịch.
Hội nhập cũng tạo cơ hội học hỏi kiến thức, kinh nghiệm, trình độ quản lí, tổ
chức khai thác kinh doanh du lịch từ những nƣớc có nền du lịch phát triển; giúp đào
tạo đội ngũ nhân lực theo kịp trình độ quốc tế. Sự dỡ bỏ những rào cản còn cho
phép gia tăng luồng lƣu chuyển du khách giữa các nƣớc. Bên cạnh đó, sức ép cạnh
tranh do hội nhập cũng tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy tiến trình đổi mới, hoàn
thiện, nâng cao chất lƣợng sản phẩm của các doanh nghiệp du lịch nhằm tồn tại và
phát triển một cách bền vững.
Tuy nhiên, hội nhập WTO cũng đƣợc xác định là một thách thức quyết liệt đối
với ngành du lịch. Du lịch Việt Nam trong giai đoạn ban đầu gia nhập WTO, cho nên
các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ du lịch vừa phải hợp tác, vừa tìm hiểu cơ chế và
luật chơi quốc tế. Vì vậy có nhiều hạn chế và khó khăn, trong khi hệ thống luật pháp
chƣa hoàn chỉnh. Thực tế năng lực cạnh tranh của du lịch nƣớc ta còn thấp bởi dịch vụ
chƣa đa dạng, cơ sở hạ tầng không theo kịp tốc độ phát triển, chất lƣợng dịch vụ còn
kém, giá cả cao, sản phẩm du lịch ít phong phú, dẫn đến du lịch nƣớc ta chƣa giữ chân
đƣợc khách, kéo dài thời gian lƣu trú, tỉ lệ khách quay lại lần hai còn thấp.
75
Hội nhập sẽ tạo áp lực rất lớn cho các doanh nghiệp du lịch Việt Nam trong
cạnh tranh. Phần lớn doanh nghiệp du lịch của ta thuộc loại vừa và nhỏ, chất lƣợng
dịch vụ hạn chế, năng lực quản lí thấp. Đội ngũ nhân lực du lịch thiếu và yếu về
trình độ ngoại ngữ và kinh nghiệm, nhất là thiếu những ngƣời có chuyên môn cao.
Quá trình hội nhập, mở cửa cũng có thể tạo ra nguy cơ phá hoại môi trƣờng và cảnh
quan du lịch nếu không có sự quan tâm và những biện pháp quản lí hiệu quả. Đó là
một số thách thức chính đang đặt ra đối với ngành du lịch nói chung và các doanh
nghiệp du lịch Việt Nam nói riêng khi gia nhập WTO.
2. Vị thế ngày càng tăng của Việt Nam trên trƣờng quốc tế khơi dậy trí tò mò,
ƣa khám phá của khách du lịch nƣớc ngoài
Những năm qua đƣợc sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nƣớc, sự hỗ trợ
của các ban, ngành liên quan và nỗ lực tự thân của toàn ngành, du lịch Việt Nam đã
có những bƣớc phát triển mạnh mẽ và đang từng bƣớc hội nhập vào quá trình phát
triển của du khách thế giới. Vị thế của Việt Nam ngày càng đƣợc khẳng định và
nâng cao.
Việt Nam ngày càng nổi lên nhƣ một điểm đến an toàn thân thiện. Vị thế
Việt Nam ngày càng đƣợc nâng cao trên trƣờng quốc tế do hiệu ứng năm APEC
Việt Nam, thành viên WTO, uỷ viên không thƣờng trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp
Quốc, hàng loạt Diễn đàn, Hội nghị Quốc tế, sự kiện ngoại giao, kinh tế, văn hoá,
thể thao quốc tế tổ chức tại Việt Nam. Nƣớc ta đang hội nhập kinh tế quốc tế ngày
càng rộng và sâu. Vị thế cạnh tranh tầm quốc gia của Việt Nam ngày càng lớn…
Những nhân tố mới này là thời cơ chung của cả nền kinh tế, nhƣng trƣớc hết và trực
tiếp nhất là ngành du lịch phải nắm lấy và biến thành sức mạnh vật chất, thành động
lức tăng trƣởng bởi du lịch gắn liền với hoà bình, an ninh và ổn định.
Đồng thời, quan hệ quốc tế của ngành du lịch Việt Nam ngày càng mở rộng,
Việt Nam đã tích cực tham gia vào nhiều diễn đàn hợp tác du lịch song phƣơng và
đa phƣơng của khu vực và thế giới. Du lịch Việt Nam còn mở rộng, tăng cƣờng hợp
tác quốc tế, kí kết 38 hiệp định hợp tác du lịch song phƣơng cấp Chính phủ với các
nƣớc trong và ngoài khu vực, thiết lập quan hệ với hơn 1.000 hãng du lịch của hơn
50 quốc gia và vùng lãnh thổ. Về hợp tác đa phƣơng, Việt Nam đã kí hiệp định hợp
76
tác du lịch đa phƣơng 10 nƣớc ASEAN, chủ động tham gia các chƣơng trình phát
triển du lịch. Chúng ta còn tham gia tích cực và hiệu quả vào các diễn đàn hợp tác
du lịch quốc tế và khu vực nhƣ Tổ chức Du lịch thế giới, hợp tác du lịch ASEAN,
Hiệp hội Du lịch châu Á - Thái Bình Dƣơng, chƣơng trình phát triển du lịch tiểu
vùng sông Mê Kông mở rộng, hợp tác hàng lang Đông Tây, hợp tác du lịch sông
Mê Kông - sông Hằng, tổ chức thành công Hội nghị Bộ trƣởng Du lịch APEC 2006
đƣợc bạn bè quốc tế đánh giá cao và trong năm 2009, Việt Nam đăng cai tổ chức
Diễn đàn Du lịch ASEAN. Hiện nay nƣớc ta còn là thành viên của các tổ chức du
lịch: ASEANTA, PATA, UNWTO.
Từ chỗ đứng vào nhóm cuối của ASEAN, hơn 10 năm qua, Việt Nam đã
vƣơn lên vƣợt qua Philippines, chỉ còn đứng sau 4 nƣớc du lịch phát triển hàng đầu
là Thái Lan, Singapore, Malaysia và Indonesia. Thƣơng hiệu Việt Nam đang ngày
càng đƣợc khẳng định và đề cao. Trong một báo cáo mới đƣợc công bố gần đây của
công ty phát triển thƣơng hiệu Future Brand đƣa ra, Việt Nam xuất hiện ở vị trí thứ
7 thế giới về tốc độ tăng trƣởng du lịch và sẽ là một trong 10 điểm đến hàng đầu của
du lịch thế giới trong 10 năm tới. Khách du lịch cung nhƣ báo chí nƣớc ngoài đều
nói về Việt Nam với nhận xét chung: Việt Nam là điểm đến mang nhiều nét Á Đông
hấp dẫn, gợi mở những khám phá, nhƣng điều quan trọng nhất đây còn là điểm đến
thân thiện, an ninh đƣợc đảm bảo trong một thế giới đầy biến động. Đối với du lịch,
nhân dân thế giới sẽ biết đến hình ảnh mới của Việt Nam; sẽ tò mò, mong muốn tìm
hiểu đất nƣớc mà hình ảnh vốn gắn với chiến tranh và nghèo đói đã, đang và sẽ thay
đổi thế nào. Do vậy, lƣợng khách du lịch đến Việt Nam sẽ ngày càng tăng. Đặc biệt,
với cục diện chính trị ổn định, hệ thống cơ chế chính sách, luật pháp minh bạch, các
doanh nghiệp nƣớc ngoài sẽ đến đầu tƣ vào Việt Nam nhiều hơn nữa, mang lại
những đổi thay lớn lao cho ngành du lịch nƣớc nhà.
Trong tƣơng lai, với những thành tựu đã đạt đƣợc, ngành du lịch Việt Nam
sẽ còn nỗ lực huy động sức mạnh tổng hợp tạo bƣớc đột phá để Việt Nam sớm trở
thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ trong khu vực.
3. Ngành du lịch của Việt Nam đƣợc Nhà nƣớc coi là ngành kinh tế mũi nhọn
77
Trong bản báo cáo “Các cơ hội của ngành công nghiệp du lịch Việt Nam
(2007-2009)”, hãng nghiên cứu công nghiệp toàn cầu RNCOS dự báo Việt Nam sẽ
lọt vào danh sách 10 điểm du lịch hấp dẫn nhất thế giới vào năm 2016. Theo tính
toán cảu RNCOS, trong năm 5 tới (2008-2011), tốc độ tăng trƣởng của ngành dng
du lịch Việt Nam luôn đạt mức trên 14% và đây cũng là “một trong những nền kinh
tế thể hiện sự tăng trƣởng ấn tƣợng nhất ở châu Á”. Các chuyên gia kinh tế của
RNCOS khẳng định, nhờ sự bùng nổ của ngành công nghiệp du lịch, sẽ có thêm
nhiều cơ hội việc làm, tăng thu nhập cho ngƣời dân và sự tăng sức mua. Ngành du
lịch cũng sẽ đóng vai trò quan trọng đối với sự tăng trƣởng của nền kinh tế Việt
Nam. Giao thông, y tế và các ngành công nghiệp liên quan khác cũng sẽ đƣợc
hƣởng lợi từ sự bùng nổ của du lịch. Báo cáo nhấn mạnh: “Du lịch nằm trong số
những ngành công nghiệp tăng trƣởng nhanh nhất tại hầu hết các nƣớc trên thế giới.
Tại các nƣớc châu Á, Việt Nam nằm trong số những điểm du lịch đạt tỉ lệ tăng
trƣởng cao nhất. Trong những năm gân đây, Việt Nam chào đón khách du lịch từ
nhiều nƣớc, nhiều khu vực”
Thực hiện chủ trƣơng của Đảng: “Thực hiện nhất quán đƣờng lối đối ngoại
độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phƣơng hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế quốc tế.
Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nƣớc trong cộng đồng quốc tế,
phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”19. Đảng đã có những chủ trƣơng và
quan điểm đúng đắn, toàn diện thông qua hàng loạt những điều chỉnh về cơ cấu
kinh tế, về nâng cao sức cạnh tranh, về luật pháp, chính sách và cơ chế sao cho phù
hợp với thực tế nƣớc ta, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, thể hiện rõ trong các điều
khoản của các hiệp định song phƣơng và đa phƣơng. Những quan điểm trên đã tác
động không nhỏ đến ngành du lịch.
Đảng và Nhà nƣớc đã xác định “Phát triển du lịch với vai trò một ngành kinh
tế mũi nhọn là hƣớng tích cực để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
các ngành khác phát triển, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
19
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010
78
nƣớc”20. Ngành du lịch cần phải nâng cao tỉ trọng trong khối ngành dịch vụ, góp
phần tăng tỉ trọng của khu vực dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân, chuyển dịch cơ
cấu theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển du lịch phải tạo ra những
điều kiện thuận lợi thúc đẩy nhanh sự phát triển của các ngành liên quan: vận tải,
bảo hiểm, ngân hàng, các ngành sản xuất hàng hoá…. Du lịch phát triển phải đóng
góp tích cực vào việc thực hiện Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia,
nhằm đạt mục tiêu đến 2010 nƣớc ta cơ bản trở thành một nƣớc công nghiệp, Việt
Nam sẽ nằm trong nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực. Hơn
nữa, “phát triển du lịch nhanh và bền vững, tranh thủ khai thác mọi nguồn lực trong
và ngoài nƣớc, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, nâng cao
chất lƣợng và đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng yêu cầu của phát triển”21. Hiện tại,
du lịch Việt Nam vẫn đang ở vị trí trung bình so với các nƣớc trong khu vực, vì vậy
để đạt đƣợc mục tiêu đến 2010 nƣớc ta sẽ là một trong những quốc gia hàng đầu về
phát triển du lịch trong khối, thì trong thời gian tới cần thiết phải phát triển nhanh
du lịch, tăng mức đóng góp của du lịch vào GDP của cả nƣớc. Tuy nhiên, không
đƣợc phát triển nhanh du lịch bằng mọi giá, mà phải dựa trên cơ sở phát triển bền
vững. Phát triển du lịch bền vững theo chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta là phát
triển trên cơ sở bảo vệ môi trƣờng tự nhiên và xã hội, giữ gìn và phát huy các truyền
thống lâu đời của dân tộc, các giá trị văn hoá- lịch sử.
Để chủ động hội nhập với du lịch thế giới, Chính phủ đã ban hành Chiến
lƣợc phát triển du lịch và Chƣơng trình hoạt động quốc gia về du lịch, đã đầu tƣ
hàng nghìn tỉ đồng hỗ trợ đầu tƣ hạ tầng kĩ thuật ở các khu du lịch trọng điểm và
thu hút các dự án đầu tƣ trực tiếp của nƣớc ngoài vào du lịch. Hàng trăm khách sạn,
khu du lịch cao cấp đƣợc xây mới, gia tăng số lƣợng phòng khách sạn và những sản
phẩm du lịch đạt tiêu chuẩn phục vụ khách quốc tế. Công tác xúc tiến, quảng bá,
đào tạo nhân lực cũng đƣợc đẩy mạnh. Nhứng yếu tố đó tạo điều kiện cho việc thu
hút du khách nƣớc ngoài đến Việt Nam ngày càng đông.
20
21
Chính phủ nƣớc CHXHCN Việt Nam (2002), Chiến lƣợc phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2006-2010, Hà Nội
Bộ Văn hoá - Thể Thao và Du lịch (2007), Chƣơng trình hành động quốc gia của ngành du lịch giai đoạn 2006-2010, Hà Nội
79
Việt Nam cũng đã hoàn thành và đƣa vào triển khai Luật Du lịch và ban hành
nhiều văn bản hƣớng dẫn tạo ra một môi trƣờng pháp lí rõ ràng hơn trong hoạt động
kinh doanh du lịch. Trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, lực lƣợng doanh
nghiệp du lịch nƣớc ta cũng đã phát triển, thích nghi dần với cơ chế mới.
Hiện nay, các doanh nghiệp du lịch của con ngƣời đang đƣợc cổ phần hoá và
sắp xếp lại theo hƣớng hình thành những tập đoàn du lịch mạnh, công ty mẹ - công
ty con để từng bƣớc làm ăn hiệu qủa trƣớc môi trƣờng cạnh tranh quốc tế. Ngành
Du lịch phấn đấu đến năm 2010 thu nhập du lịch đạt 4 - 5 tỷ USD, gấp 2 lần so với
năm 2005, đƣa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển về du lịch trong khu vực.
Mục tiêu cho đến 2020 thu nhập du lịch đạt đƣợc 10 tỷ USD.
Về tổng sản phẩm du lịch (GDP), ngành phấn đấu năm 2010 đạt 3 tỷ USD,
gấp 3,6 lần so với năm 2000. Đảm bảo tốc độ tăng trƣởng GDP du lịch bình quân
giai đoạn 2006-2010 đạt 15,6%.
Về cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch, ngành đặt mục tiêu nâng cao và xây dựng
mới các cơ sở lƣu trú đảm bảo đến năm 2010 có 212.000 phòng khách sạn.
Ngành du lịch phấn đấu đến năm 2010 tạo thêm 1,4 triệu việc làm trực tiếp
và gián tiếp cho ngành du lịch.
II. TÌM HIỂU KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRONG VIỆC PHÁT
TRIỂN DỊCH VỤ DU LỊCH
1. Kinh nghiệm của Trung Quốc
Trung Quốc đƣợc biết đến nhƣ là một đất nƣớc phát triển kinh tế du lịch
đứng đầu thế giới. Du lịch Trung Quốc phát triển mạnh, trƣớc hết là dựa vào thế
mạnh tiềm năng văn hóa đặc sắc, phong phú. Trung Quốc là một đất nƣớc rộng lớn
với bề dày lịch sử văn hóa lâu đời. Vì vậy, đến bất cứ địa phƣơng nào ở nƣớc này,
du khách cũng có những địa chỉ du lịch hấp dẫn. Ngƣời Trung Quốc hôm nay đã rất
biết giữ gìn, tôn tạo và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống đó để phát triển
du lịch.
1.1. Nhấn mạnh bản sắc văn hoá dân tộc trong sản phẩm du lịch
Một trong những yếu tố dẫn đến thành công của du lịch Trung Quốc trong
thu hút khách du lịch quốc tế là việc xây dựng những sản phẩm số lƣợng mang đặc
80
tính bản sắc văn hóa Trung Quốc. Những ngày hội văn hóa độc đáo của ngƣời
Choang, ngƣời Mông, ngƣời Dao ở Vân Nam, Quảng Tây; những điệu múa, khúc
ca của những ngƣời du mục trên cao nguyên Thanh-Tạng; mỗi địa danh, tên mỗi
nhân vật nổi tiếng trong văn học cổ.. tất cả đều đƣợc gìn giữ và biến thành những
sản phẩm số lƣợng đặc sắc mang nhãn hiệu “Trung Quốc”. Các di tích lịch sử văn
hóa nhƣ Trƣờng Thành, Di Hòa Viên, Thập tam lăng ở Bắc Kinh; hồ Tây ở Hàng
Châu, lầu Hoàng Hạc ở Vũ Hán…dẫu bị thời gian và chiến tranh tàn phá ghê gớm,
song đều đƣợc ngƣời Trung Quốc hôm nay không tiếc tiền của, công sức, xây dựng,
khôi phục. Theo ƣớc tính của Tổ chức Du lịch - Lữ hành quốc tế thì đầu tƣ cho
ngành du lịch - lữ hành Trung Quốc năm 2004 lên tới 512,1 tỉ NDT, chiếm 9,6%
tổng kim ngạch đầu tƣ của cả nƣớc. Bên cạnh kiến trúc cổ, cùng với sự vƣơn lên về
kinh tế, những công trình hiện đại của Trung Quốc cũng không kém phần hấp dẫn.
Đến Bắc Kinh, ngoài các di tích cổ, du khách có thể ngắm phố đêm Tràng An lộng
lẫy; dạo phố đi bộ Nam Kinh…là những điểm không thể thiếu trong hành trình của
khách tham quan. Cho đến nay, hầu hết tài nguyên du lịch của Trung Quốc đã đƣợc
tổ chức khai thác, dù hiệu quả không đồng đều. Việc khai thác tài nguyên du lịch
cùng với việc tổ chức các dịch vụ du lịch ngày càng hoàn hảo hơn đã làm cho thế
giới biết đến các sản phẩm du lịch đậm sắc màu Trung Quốc, có sức hấp dẫn cao
đối với du khách. Giáo sƣ Vƣơng Lập Cƣơng – Viện trƣởng Viện nghiên cứu du
lịch Trung Quốc cho biết, năm 2007 Trung Quốc đón hơn 50 triệu khách quốc tế,
chính từ những sản phẩm du lịch độc đáo của mình.
Hiện nay, hầu nhƣ ở các địa phƣơng của Trung Quốc đều xây dựng thành
công phố đi bộ - mua sắm theo mô hình Vƣơng Phủ Tỉnh của Bắc Kinh. Các thành
phố lớn của Trung Quốc đã xây dựng thành công mô hình du lịch kết hợp thƣơng
mại, thu hút khách du lịch đến không chỉ tham quan, mà còn mua sắm, tìm hiểu thị
trƣờng, tìm kiếm cơ hội đầu tƣ. Cục phó Cục du lịch Bắc Kinh Ôn Tử Cát cho biết,
hiện nay trong số hơn 3 triệu du khách nƣớc ngoài đến thành phố mỗi năm, có
khoảng 30% là du khách thƣơng mại.
1.2. Nêu bật tính riêng có, đặc thù của từng điểm du lịch
81
Điều đáng suy ngẫm là, cũng những tài nguyên du lịch nổi tiếng - thậm chí
“độc nhất vô nhị” trên thế giới, nhƣng trƣớc đây do thiếu khả năng tổ chức khai thác
nên sản phẩm du lịch Trung Quốc đơn điệu. Cho đến nay, với các chƣơng trình số
lƣợng phong phú, đa dạng, các yếu tố văn hoá của 56 dân tộc, của các địa phƣơng,
của mỗi vùng đều có dấu ấn riêng trong sản phẩm du lịch của Trung Quốc. Chƣơng
trình du lịch hang động, du lịch trƣợt tuyết ở phƣơng Bắc, du lịch nhiệt đới, du lịch
sông hồ ở phƣơng Nam với những món ăn lạ miệng, với những đồ lƣu niệm độc đáo
và ngay cả những chƣơng trình biểu diễn văn nghệ, các trang phục của nhân viên
phục vụ trong ngành du lịch… là những ví dụ sống động, gây ấn tƣợng cho du
khách. Ở Hàng Châu, Tô Châu, Quảng Đông, Quảng Tây so với ở Bắc Kinh, kĩ
năng, phong cách của các nhân viên lữ hành đã khác so với các đồng nghiệp ở
Thƣợng Hải, Thiên Tân. Hoạt động du lịch ở Hồng Kông, Ma Cao, Thâm Quyến lại
mang lại sắc thái khác biệt với sự kết hợp tài tình giữa văn hoá du lịch phƣơng
Đông và phƣơng Tây. Tài nguyên du lịch đƣợc bảo vệ , quản lí chu đáo, nghiêm
ngặt và khai thác tối đa. Dẫu không có Vạn Lí Trƣờng Thành, Di Hoà Viên, Cố
Cung, Thập Tam Lăng, Khai Phong Phủ, Thiếu Lâm Tự…, Việt Nam vẫn có thể tổ
chức bảo vệ và khai thác tài nguyên du lịch tốt hơn. Sự kết hợp tham quan với giới
thiệu sản phẩm, bán hàng trong chƣơng trình du lịch nhƣ uống trà Công phu, trà
Long Tỉnh, thƣ giãn trong hiệu thuốc Đông Nhân Đƣờng rộng lớn…đáng để chúng
ta học tập.
1.3. Chú trọng đặc biệt đến việc quảng bá du lịch
Sức hấp dẫnvà sự thành công của ngành du lịch Trung Quốc còn do công tác
quảng bá du lịch luôn đƣợc chú trọng. Những lời quảng cáo ấn tƣợng và hàm súc
nhƣ: “Bất đáo Trƣờng Thành phi Hảo hán” hay “Non nƣớc Quế Lâm đứng đầu
thiên hạ”.. đƣợc truyền tụng từ bao năm qua đã có tác động thôi thúc hàng triệu
khách du lịch đến với Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc luôn quan tâm và có
chính sách để thúc đẩy du lịch phát triển.
Vào dịp Tết âm lịch, ngày Quốc tế lao động 1-5, Quốc khánh hàng năm, Trung
Quốc đều cho nghỉ trọng một tuần, gọi là “tuần lễ Vàng”, để tạo điều kiện cho nhân
dân đi du lịch, mua sắm. Đây là những tuần lễ “bội thu” đối với ngành du lịch. Riêng
82
“Tuần lễ vàng” 1-5 năm 2006, Trung Quốc đón tiếp hơn 100 triệu du khách và ngành
du lịch đạt mức doanh thu 39 tỉ NDT. Bên cạnh đó, việc quy phạm hóa, chuyên môn
hóa đội ngũ cán bộ, hƣớng dẫn viên làm công tác du lịch; tạo hành lang pháp lí, cải tiến
trong việc cấp thị thực nhập cảnh đã tạo tiền đề quan trọng cho tổ chức, thu hút khách.
Có thể nói, ở Trung Quốc, giữa các ngành du lịch, thƣơng mại, hải quan, giao thông
vận tải…. đã tìm đƣợc tiếng nói chung, phối hợp nhịp nhàng.
Vốn đầu tƣ cho du lịch và đào tạo nhân lực ở Trung Quốc hiện nay đƣợc huy
động từ nhiều nguồn, Trung Quốc huy động 5 nguồn vốn vào phát triển du lịch:
Nhà nƣớc, các địa phƣơng, các Bộ ngành, mà quan trọng nhất là Giao thông, Xây
dung, Thƣơng mại, Du lịch; tập thể; cá nhân (cả trong và hợp tác nƣớc ngoài). Với
những nguồn vốn này, thực sự Nhà nƣớc Trung Quốc chỉ đầu tƣ 15%, còn 85% là
từ 4 nguồn còn lại và du lịch Trung Quốc đã có những thay đổi to lớn vả về cơ sở
vật chất kĩ thuật, dịch vụ, tôn tạo,bảo quản lâu dài, tàiu nguyên du lịch và phát triển
môi trƣờng du lịch. Vốn đầu tƣ gắn lion với chính sách mở cửa, năng động với tinh
thần sẵn sàng hỗ trợ tháo gỡ vƣớng mắc từ các địa phƣơng, các ngành cho đến
Trung Ƣơng là một động lực quan trọng cho du lịch Trung Quốc phát triển.
1.4. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch
Trung Quốc xây dựng 4 trung tâm đào tạo và bồi dƣỡng nhân lực du lịch lớn
ở cấp quốc gia. Trung tâm đào tạo bồi dƣỡng lãnh đạo, quản lí du lịch của các tỉnh
thành; Trung tâm đào tạo bồi dƣỡng giám đốc các khách sạn, Trung tâm đào tạo bồi
dƣỡng nghiệp vụ lữ hành và Trung tâm đào tạo bồi dƣỡng nghiệp vụ dịch vụ du
lịch. Tuỳ theo yêu cầu của từng trung tâm, những việc tổ chức các lớp đào tạo
thƣờng xuyên và đột xuất hàng năm do Cục Du lịch Quốc gia chỉ đạo đã góp phần
tăng khả năng kinh doanh du lịch Trung Quốc lên rất nhiều. Việc đào tạo dài hạn tại
các trƣờng Đại học, Học viện Du lịch Trung Quốc vẫn là hƣớng cơ bản và lâu dài.
Nhƣng trƣớc thực tế là cán bộ lãnh đạo quản lí các lĩnh vực hoạt động hoặc chƣa
đào tạo cơ bản, hoặc yêu cầu cần cập nhật tri thức, phƣơng pháp đào tạo từ các
Trung tâm đào tạo bồi dƣỡng quốc gia là rất cần thiết. Việc đào tạo bồi dƣỡng theo
loại hình này thật ra không phức tạp và khá hiệu quả không chỉ ở Trung Quốc. Có lẽ
83
trong tƣơng lai Việt Nam cũng cần định hƣớng tới sự ra đời và hoạt động của Trung
tâm đào tạo -bồi dƣỡng mang tính quốc gia về du lịch.
1.5. Ngoại ngữ yếu là một nhược điểm trong hoạt động du lịch ở Trung Quốc
Tuy nhiên, hạn chế dễ thấy qua các chuyến du lịch ở Trung Quốc là vốn
ngoại ngữ của những ngƣời làm du lịch. Ở nhiều khách sạn cỡ 3 - 4 sao tại các trung
tâm du lịch lớn, những cán bộ, nhân viên phục vụ có khả năng sử dụng ngoại ngữ
thật ít ỏi, ngay cả với những ngoại ngữ có tinh phổ cập quốc tế nhƣ tiếng Anh, tiếng
Pháp,… Các khách sạn ở Hồng Kông, Thƣợng Hải do thực tế đòi hỏi nên đội ngũ
nhân viên có ngoại ngữ khá đông. Nhƣng ở các địa phƣơng khác, kể cả Bắc Kinh,
khách quốc tế Âu-Hoa Kì rất vất vả khi muốn trao đổi hay tìm kiếm thông tin.
Một trong những lí do căn bản khiến du lịch Trung Quốc phát triển nhanh
chóng trong những năm qua là do thu nhập của ngƣời dân đã đƣợc nâng cao đáng
kể. Nếu năm 1978, khi Trung Quốc vừa thực hiện cải cách, mở cửa, thu nhập bình
quân đầu ngƣời/năm là 1459NDT, thì đến 2003, con số này đã đạt khoảng 8.500
NDT. Thu nhập của ngƣời dân tăng cao không chỉ khiến du lịch trong nƣớc sôi
động, mà số ngƣời Trung Quốc đi du lịch nƣớc ngoài cũng tăng lên đáng kể. Sự kết
hợp hài hoà giữa hoạt động du lịch quốc tế với du lịch nội địa đƣợc coi là phƣơng
hƣớng chỉ đạo vĩ mô và xuống tới từng doanh nghiệp. Có thể thấy đƣợc ở các trung
tâm du lịch, các địa danh du lịch Trung Quốc, hệ thống cơ sở vật chất, dịch vụ số
lƣợng, sự quan tâm tới cả khách du lịch quốc tế và khách nội địa đƣợc thể hiện rất
cụ thể. ở các địa danh nổi tiếng nhƣ Vạn Lí Trƣờng Thành, Cố Cung, Trung Hoa
Cẩm Tú, Khổng phủ, Bến Thƣợng Hải…, khách du lịch nội địa rất nhiều và khả
năng thanh toán, chi tiêu cao. Những điều kiện tiềm năng cho phát triển du lịch nội
địa Trung Quốc thuận lợi hơn và rất khác so với Việt Nam song cũng gợi những vấn
đề có tầm quan trọng cơ bản và lâu dài cho du lịch Việt Nam, đặc biệt là phát triển
du lịch nội địa. Với số dân hiện nay và trong tƣơng lai, cùng với sự phát triển kinh
tế - xã hội, du lịch nội địa Việt Nam sẽ phát triển tốt hơn nhiều so với hiện nay. Vấn
đề ngành du lịch cần cụ thể hoá hoạt động kinh doanh du lịch hƣớng vào đối tƣợng
khách này cho phù hợp.
84
Từ những hoạt động tổ chức, kinh doanh và phát triển du lịch Trung Quốc có
thể rút ra đƣợc khá nhiều bài học kinh nghiệm cho du lịch Việt Nam, du lịch văn
hoá, du lịch sinh thái, du lịch mua sắm đang là những loại hình du lịch đƣợc ƣu tiên;
vấn đề bảo vệ môi trƣờng du lịch, nhất quán và chặt chẽ trong chính sách phát triển
du lịch, khai thác tiềm năng du lịch tại chỗ…cũng cần thiết chức cho chúng ta. Tuy
nhiên, những dịch vụ ăn uống, nghiệp vụ, kĩ năng và phong cách phục vụ ăn uống,
mua sắm của đội ngũ nhân viên ở Trung Quốc còn lắm hạn chế, chƣa thực sự tạo
đƣợc cảm tình với du khách. Thực tế đó cũng tạo ra những vấn đề cho du lịch Việt
Nam, trong đào tạo nghề hiện nay và mai sau.
2. Kinh nghiệm của Singapore
2.1. Lựa chọn những vấn đề chủ yếu nhất để có chính sách phát triển mạnh
Du lịch là một trong những ngành mũi nhọn tai Singapore. Trong những năm
vừa qua, Chính phủ Singapore rất chú trọng đầu tƣ cho việc phát triển ngành du lịch,
qua đó đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách, đóng góp trên 5% GDP của nƣớc này.
Với dân số 4 triệu ngƣời và diện tích hơn 600 km2, hàng năm Singapore thu hút gần 8
triệu du khách, tạo thu nhập khoảng 11 tỉ Đôla Singapore và hơn 150.000 việc làm.
Một trong những yếu tố tạo thành công cho du lịch Singapore bắt nguồn từ
năm chữ A trong tiếng anh là: điểm thắng cảnh (Attractions), phƣơng tịên giao
thông (Accessibility), cơ sở tiện nghi (Amenities), các dịch vụ hỗ trợ (Ancillary
services) và sự điều chỉnh phù hợp về chính sách (Adjustment).
Để đạt đƣợc những thành tựu trên Singapore rất chú trọng tới việc xây dựng
thƣơng hiệu cho ngành du lịch, tuyên truyền quảng bá hình ảnh du lịch ra nƣớc
ngoài, tích cực hợp tác với các nƣớc trong công tác du lịch, đơn giản hóa các thủ tục
nhập cảnh cho khách du lịch… Để phát triển nguồn khách du lịch, ngành du lịch
Singapore đã mở trên 20 văn phòng đại diện du lịch ở các nƣớc là thị trƣờng trọng
điểm. Từ giữa những năm 1980, chính phủ Singapore đã đầu tƣ hàng trăm triệu
USD nâng cấp các điểm thắng cảnh văn hóa và lịch sử. Sân bay Changi dù liên tục
đƣợc bầu chọn là sân bay tốt nhất thế giới vẫn đang đƣợc đầu tƣ 1,8 tỉ Đôla
Singapore để nâng cấp.
2.2. Có chiến lược phát triển du lịch mềm dẻo và linh hoạt
85