1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DU LỊCH VIỆT NAM ĐÁP ỨNG YÊU CẦU CỦA HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ TRONG THỜI GIAN TỚI

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 118 trang )


ngày một thông thoáng hơn, cạnh tranh tự do và bình đẳng hơn. Do vậy khuyến

khích các thành phần kinh tế tham gia và huy động đƣợc nhiều nguồn vào các hoạt

động kinh doanh, nhất là trong lĩnh vực du lịch.

Gia nhập WTO, Việt Nam sẽ thực sự hội nhập vào nền kinh tế thế giới vì

WTO là tổ chức gồm 151 thành viên, chiếm khoảng 90 tổng thƣơng mại dịch vụ

toàn cầu. Với những lợi thế do WTO mang lại, Việt Nam có điều kiện để tăng

cƣờng tiếp cận thị trƣờng của các nƣớc thành viên khác, mở rộng thị trƣờng du lịch,

thu hút ngày càng nhiều khách du lịch đến từ các nƣớc.

Sau khi gia nhập WTO, khả năng thu hút vốn FDI của ta ngày càng đƣợc cải

thiện, trong đó có một nguồn lớn vốn đầu tƣ vào lĩnh vực du lịch. Đây là nguồn vốn

quan trọng để phát triển ngành du lịch nƣớc ta theo kịp trình độ của các nƣớc trong

khu vực và trên thế giới. WTO đang mở ra những viễn cảnh đầu tƣ mới. Hiện tại

nhiều tập đoàn kinh tế mới đang hƣớng sự chú ý đến Việt Nam và sẽ “đổ bộ” vào

đầu tƣ đón đầu trong lĩnh vực du lịch.

Hội nhập cũng tạo cơ hội học hỏi kiến thức, kinh nghiệm, trình độ quản lí, tổ

chức khai thác kinh doanh du lịch từ những nƣớc có nền du lịch phát triển; giúp đào

tạo đội ngũ nhân lực theo kịp trình độ quốc tế. Sự dỡ bỏ những rào cản còn cho

phép gia tăng luồng lƣu chuyển du khách giữa các nƣớc. Bên cạnh đó, sức ép cạnh

tranh do hội nhập cũng tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy tiến trình đổi mới, hoàn

thiện, nâng cao chất lƣợng sản phẩm của các doanh nghiệp du lịch nhằm tồn tại và

phát triển một cách bền vững.

Tuy nhiên, hội nhập WTO cũng đƣợc xác định là một thách thức quyết liệt đối

với ngành du lịch. Du lịch Việt Nam trong giai đoạn ban đầu gia nhập WTO, cho nên

các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ du lịch vừa phải hợp tác, vừa tìm hiểu cơ chế và

luật chơi quốc tế. Vì vậy có nhiều hạn chế và khó khăn, trong khi hệ thống luật pháp

chƣa hoàn chỉnh. Thực tế năng lực cạnh tranh của du lịch nƣớc ta còn thấp bởi dịch vụ

chƣa đa dạng, cơ sở hạ tầng không theo kịp tốc độ phát triển, chất lƣợng dịch vụ còn

kém, giá cả cao, sản phẩm du lịch ít phong phú, dẫn đến du lịch nƣớc ta chƣa giữ chân

đƣợc khách, kéo dài thời gian lƣu trú, tỉ lệ khách quay lại lần hai còn thấp.



75



Hội nhập sẽ tạo áp lực rất lớn cho các doanh nghiệp du lịch Việt Nam trong

cạnh tranh. Phần lớn doanh nghiệp du lịch của ta thuộc loại vừa và nhỏ, chất lƣợng

dịch vụ hạn chế, năng lực quản lí thấp. Đội ngũ nhân lực du lịch thiếu và yếu về

trình độ ngoại ngữ và kinh nghiệm, nhất là thiếu những ngƣời có chuyên môn cao.

Quá trình hội nhập, mở cửa cũng có thể tạo ra nguy cơ phá hoại môi trƣờng và cảnh

quan du lịch nếu không có sự quan tâm và những biện pháp quản lí hiệu quả. Đó là

một số thách thức chính đang đặt ra đối với ngành du lịch nói chung và các doanh

nghiệp du lịch Việt Nam nói riêng khi gia nhập WTO.

2. Vị thế ngày càng tăng của Việt Nam trên trƣờng quốc tế khơi dậy trí tò mò,

ƣa khám phá của khách du lịch nƣớc ngoài

Những năm qua đƣợc sự quan tâm chỉ đạo của Đảng và Nhà nƣớc, sự hỗ trợ

của các ban, ngành liên quan và nỗ lực tự thân của toàn ngành, du lịch Việt Nam đã

có những bƣớc phát triển mạnh mẽ và đang từng bƣớc hội nhập vào quá trình phát

triển của du khách thế giới. Vị thế của Việt Nam ngày càng đƣợc khẳng định và

nâng cao.

Việt Nam ngày càng nổi lên nhƣ một điểm đến an toàn thân thiện. Vị thế

Việt Nam ngày càng đƣợc nâng cao trên trƣờng quốc tế do hiệu ứng năm APEC

Việt Nam, thành viên WTO, uỷ viên không thƣờng trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp

Quốc, hàng loạt Diễn đàn, Hội nghị Quốc tế, sự kiện ngoại giao, kinh tế, văn hoá,

thể thao quốc tế tổ chức tại Việt Nam. Nƣớc ta đang hội nhập kinh tế quốc tế ngày

càng rộng và sâu. Vị thế cạnh tranh tầm quốc gia của Việt Nam ngày càng lớn…

Những nhân tố mới này là thời cơ chung của cả nền kinh tế, nhƣng trƣớc hết và trực

tiếp nhất là ngành du lịch phải nắm lấy và biến thành sức mạnh vật chất, thành động

lức tăng trƣởng bởi du lịch gắn liền với hoà bình, an ninh và ổn định.

Đồng thời, quan hệ quốc tế của ngành du lịch Việt Nam ngày càng mở rộng,

Việt Nam đã tích cực tham gia vào nhiều diễn đàn hợp tác du lịch song phƣơng và

đa phƣơng của khu vực và thế giới. Du lịch Việt Nam còn mở rộng, tăng cƣờng hợp

tác quốc tế, kí kết 38 hiệp định hợp tác du lịch song phƣơng cấp Chính phủ với các

nƣớc trong và ngoài khu vực, thiết lập quan hệ với hơn 1.000 hãng du lịch của hơn

50 quốc gia và vùng lãnh thổ. Về hợp tác đa phƣơng, Việt Nam đã kí hiệp định hợp



76



tác du lịch đa phƣơng 10 nƣớc ASEAN, chủ động tham gia các chƣơng trình phát

triển du lịch. Chúng ta còn tham gia tích cực và hiệu quả vào các diễn đàn hợp tác

du lịch quốc tế và khu vực nhƣ Tổ chức Du lịch thế giới, hợp tác du lịch ASEAN,

Hiệp hội Du lịch châu Á - Thái Bình Dƣơng, chƣơng trình phát triển du lịch tiểu

vùng sông Mê Kông mở rộng, hợp tác hàng lang Đông Tây, hợp tác du lịch sông

Mê Kông - sông Hằng, tổ chức thành công Hội nghị Bộ trƣởng Du lịch APEC 2006

đƣợc bạn bè quốc tế đánh giá cao và trong năm 2009, Việt Nam đăng cai tổ chức

Diễn đàn Du lịch ASEAN. Hiện nay nƣớc ta còn là thành viên của các tổ chức du

lịch: ASEANTA, PATA, UNWTO.

Từ chỗ đứng vào nhóm cuối của ASEAN, hơn 10 năm qua, Việt Nam đã

vƣơn lên vƣợt qua Philippines, chỉ còn đứng sau 4 nƣớc du lịch phát triển hàng đầu

là Thái Lan, Singapore, Malaysia và Indonesia. Thƣơng hiệu Việt Nam đang ngày

càng đƣợc khẳng định và đề cao. Trong một báo cáo mới đƣợc công bố gần đây của

công ty phát triển thƣơng hiệu Future Brand đƣa ra, Việt Nam xuất hiện ở vị trí thứ

7 thế giới về tốc độ tăng trƣởng du lịch và sẽ là một trong 10 điểm đến hàng đầu của

du lịch thế giới trong 10 năm tới. Khách du lịch cung nhƣ báo chí nƣớc ngoài đều

nói về Việt Nam với nhận xét chung: Việt Nam là điểm đến mang nhiều nét Á Đông

hấp dẫn, gợi mở những khám phá, nhƣng điều quan trọng nhất đây còn là điểm đến

thân thiện, an ninh đƣợc đảm bảo trong một thế giới đầy biến động. Đối với du lịch,

nhân dân thế giới sẽ biết đến hình ảnh mới của Việt Nam; sẽ tò mò, mong muốn tìm

hiểu đất nƣớc mà hình ảnh vốn gắn với chiến tranh và nghèo đói đã, đang và sẽ thay

đổi thế nào. Do vậy, lƣợng khách du lịch đến Việt Nam sẽ ngày càng tăng. Đặc biệt,

với cục diện chính trị ổn định, hệ thống cơ chế chính sách, luật pháp minh bạch, các

doanh nghiệp nƣớc ngoài sẽ đến đầu tƣ vào Việt Nam nhiều hơn nữa, mang lại

những đổi thay lớn lao cho ngành du lịch nƣớc nhà.

Trong tƣơng lai, với những thành tựu đã đạt đƣợc, ngành du lịch Việt Nam

sẽ còn nỗ lực huy động sức mạnh tổng hợp tạo bƣớc đột phá để Việt Nam sớm trở

thành một trung tâm du lịch có tầm cỡ trong khu vực.

3. Ngành du lịch của Việt Nam đƣợc Nhà nƣớc coi là ngành kinh tế mũi nhọn



77



Trong bản báo cáo “Các cơ hội của ngành công nghiệp du lịch Việt Nam

(2007-2009)”, hãng nghiên cứu công nghiệp toàn cầu RNCOS dự báo Việt Nam sẽ

lọt vào danh sách 10 điểm du lịch hấp dẫn nhất thế giới vào năm 2016. Theo tính

toán cảu RNCOS, trong năm 5 tới (2008-2011), tốc độ tăng trƣởng của ngành dng

du lịch Việt Nam luôn đạt mức trên 14% và đây cũng là “một trong những nền kinh

tế thể hiện sự tăng trƣởng ấn tƣợng nhất ở châu Á”. Các chuyên gia kinh tế của

RNCOS khẳng định, nhờ sự bùng nổ của ngành công nghiệp du lịch, sẽ có thêm

nhiều cơ hội việc làm, tăng thu nhập cho ngƣời dân và sự tăng sức mua. Ngành du

lịch cũng sẽ đóng vai trò quan trọng đối với sự tăng trƣởng của nền kinh tế Việt

Nam. Giao thông, y tế và các ngành công nghiệp liên quan khác cũng sẽ đƣợc

hƣởng lợi từ sự bùng nổ của du lịch. Báo cáo nhấn mạnh: “Du lịch nằm trong số

những ngành công nghiệp tăng trƣởng nhanh nhất tại hầu hết các nƣớc trên thế giới.

Tại các nƣớc châu Á, Việt Nam nằm trong số những điểm du lịch đạt tỉ lệ tăng

trƣởng cao nhất. Trong những năm gân đây, Việt Nam chào đón khách du lịch từ

nhiều nƣớc, nhiều khu vực”

Thực hiện chủ trƣơng của Đảng: “Thực hiện nhất quán đƣờng lối đối ngoại

độc lập, tự chủ, rộng mở, đa phƣơng hoá, đa dạng hoá các quan hệ kinh tế quốc tế.

Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nƣớc trong cộng đồng quốc tế,

phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”19. Đảng đã có những chủ trƣơng và

quan điểm đúng đắn, toàn diện thông qua hàng loạt những điều chỉnh về cơ cấu

kinh tế, về nâng cao sức cạnh tranh, về luật pháp, chính sách và cơ chế sao cho phù

hợp với thực tế nƣớc ta, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế, thể hiện rõ trong các điều

khoản của các hiệp định song phƣơng và đa phƣơng. Những quan điểm trên đã tác

động không nhỏ đến ngành du lịch.

Đảng và Nhà nƣớc đã xác định “Phát triển du lịch với vai trò một ngành kinh

tế mũi nhọn là hƣớng tích cực để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy

các ngành khác phát triển, góp phần thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất



19



Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Dự thảo Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006-2010



78



nƣớc”20. Ngành du lịch cần phải nâng cao tỉ trọng trong khối ngành dịch vụ, góp

phần tăng tỉ trọng của khu vực dịch vụ trong nền kinh tế quốc dân, chuyển dịch cơ

cấu theo hƣớng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Phát triển du lịch phải tạo ra những

điều kiện thuận lợi thúc đẩy nhanh sự phát triển của các ngành liên quan: vận tải,

bảo hiểm, ngân hàng, các ngành sản xuất hàng hoá…. Du lịch phát triển phải đóng

góp tích cực vào việc thực hiện Chiến lƣợc phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia,

nhằm đạt mục tiêu đến 2010 nƣớc ta cơ bản trở thành một nƣớc công nghiệp, Việt

Nam sẽ nằm trong nhóm quốc gia có ngành du lịch phát triển trong khu vực. Hơn

nữa, “phát triển du lịch nhanh và bền vững, tranh thủ khai thác mọi nguồn lực trong

và ngoài nƣớc, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, nâng cao

chất lƣợng và đa dạng hoá sản phẩm đáp ứng yêu cầu của phát triển”21. Hiện tại,

du lịch Việt Nam vẫn đang ở vị trí trung bình so với các nƣớc trong khu vực, vì vậy

để đạt đƣợc mục tiêu đến 2010 nƣớc ta sẽ là một trong những quốc gia hàng đầu về

phát triển du lịch trong khối, thì trong thời gian tới cần thiết phải phát triển nhanh

du lịch, tăng mức đóng góp của du lịch vào GDP của cả nƣớc. Tuy nhiên, không

đƣợc phát triển nhanh du lịch bằng mọi giá, mà phải dựa trên cơ sở phát triển bền

vững. Phát triển du lịch bền vững theo chủ trƣơng của Đảng và Nhà nƣớc ta là phát

triển trên cơ sở bảo vệ môi trƣờng tự nhiên và xã hội, giữ gìn và phát huy các truyền

thống lâu đời của dân tộc, các giá trị văn hoá- lịch sử.

Để chủ động hội nhập với du lịch thế giới, Chính phủ đã ban hành Chiến

lƣợc phát triển du lịch và Chƣơng trình hoạt động quốc gia về du lịch, đã đầu tƣ

hàng nghìn tỉ đồng hỗ trợ đầu tƣ hạ tầng kĩ thuật ở các khu du lịch trọng điểm và

thu hút các dự án đầu tƣ trực tiếp của nƣớc ngoài vào du lịch. Hàng trăm khách sạn,

khu du lịch cao cấp đƣợc xây mới, gia tăng số lƣợng phòng khách sạn và những sản

phẩm du lịch đạt tiêu chuẩn phục vụ khách quốc tế. Công tác xúc tiến, quảng bá,

đào tạo nhân lực cũng đƣợc đẩy mạnh. Nhứng yếu tố đó tạo điều kiện cho việc thu

hút du khách nƣớc ngoài đến Việt Nam ngày càng đông.



20

21



Chính phủ nƣớc CHXHCN Việt Nam (2002), Chiến lƣợc phát triển du lịch Việt Nam giai đoạn 2006-2010, Hà Nội

Bộ Văn hoá - Thể Thao và Du lịch (2007), Chƣơng trình hành động quốc gia của ngành du lịch giai đoạn 2006-2010, Hà Nội



79



Việt Nam cũng đã hoàn thành và đƣa vào triển khai Luật Du lịch và ban hành

nhiều văn bản hƣớng dẫn tạo ra một môi trƣờng pháp lí rõ ràng hơn trong hoạt động

kinh doanh du lịch. Trong quá trình đổi mới và hội nhập quốc tế, lực lƣợng doanh

nghiệp du lịch nƣớc ta cũng đã phát triển, thích nghi dần với cơ chế mới.

Hiện nay, các doanh nghiệp du lịch của con ngƣời đang đƣợc cổ phần hoá và

sắp xếp lại theo hƣớng hình thành những tập đoàn du lịch mạnh, công ty mẹ - công

ty con để từng bƣớc làm ăn hiệu qủa trƣớc môi trƣờng cạnh tranh quốc tế. Ngành

Du lịch phấn đấu đến năm 2010 thu nhập du lịch đạt 4 - 5 tỷ USD, gấp 2 lần so với

năm 2005, đƣa Việt Nam trở thành quốc gia phát triển về du lịch trong khu vực.

Mục tiêu cho đến 2020 thu nhập du lịch đạt đƣợc 10 tỷ USD.

Về tổng sản phẩm du lịch (GDP), ngành phấn đấu năm 2010 đạt 3 tỷ USD,

gấp 3,6 lần so với năm 2000. Đảm bảo tốc độ tăng trƣởng GDP du lịch bình quân

giai đoạn 2006-2010 đạt 15,6%.

Về cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch, ngành đặt mục tiêu nâng cao và xây dựng

mới các cơ sở lƣu trú đảm bảo đến năm 2010 có 212.000 phòng khách sạn.

Ngành du lịch phấn đấu đến năm 2010 tạo thêm 1,4 triệu việc làm trực tiếp

và gián tiếp cho ngành du lịch.

II. TÌM HIỂU KINH NGHIỆM CỦA MỘT SỐ NƢỚC TRONG VIỆC PHÁT

TRIỂN DỊCH VỤ DU LỊCH

1. Kinh nghiệm của Trung Quốc

Trung Quốc đƣợc biết đến nhƣ là một đất nƣớc phát triển kinh tế du lịch

đứng đầu thế giới. Du lịch Trung Quốc phát triển mạnh, trƣớc hết là dựa vào thế

mạnh tiềm năng văn hóa đặc sắc, phong phú. Trung Quốc là một đất nƣớc rộng lớn

với bề dày lịch sử văn hóa lâu đời. Vì vậy, đến bất cứ địa phƣơng nào ở nƣớc này,

du khách cũng có những địa chỉ du lịch hấp dẫn. Ngƣời Trung Quốc hôm nay đã rất

biết giữ gìn, tôn tạo và phát huy những giá trị văn hóa truyền thống đó để phát triển

du lịch.

1.1. Nhấn mạnh bản sắc văn hoá dân tộc trong sản phẩm du lịch

Một trong những yếu tố dẫn đến thành công của du lịch Trung Quốc trong

thu hút khách du lịch quốc tế là việc xây dựng những sản phẩm số lƣợng mang đặc



80



tính bản sắc văn hóa Trung Quốc. Những ngày hội văn hóa độc đáo của ngƣời

Choang, ngƣời Mông, ngƣời Dao ở Vân Nam, Quảng Tây; những điệu múa, khúc

ca của những ngƣời du mục trên cao nguyên Thanh-Tạng; mỗi địa danh, tên mỗi

nhân vật nổi tiếng trong văn học cổ.. tất cả đều đƣợc gìn giữ và biến thành những

sản phẩm số lƣợng đặc sắc mang nhãn hiệu “Trung Quốc”. Các di tích lịch sử văn

hóa nhƣ Trƣờng Thành, Di Hòa Viên, Thập tam lăng ở Bắc Kinh; hồ Tây ở Hàng

Châu, lầu Hoàng Hạc ở Vũ Hán…dẫu bị thời gian và chiến tranh tàn phá ghê gớm,

song đều đƣợc ngƣời Trung Quốc hôm nay không tiếc tiền của, công sức, xây dựng,

khôi phục. Theo ƣớc tính của Tổ chức Du lịch - Lữ hành quốc tế thì đầu tƣ cho

ngành du lịch - lữ hành Trung Quốc năm 2004 lên tới 512,1 tỉ NDT, chiếm 9,6%

tổng kim ngạch đầu tƣ của cả nƣớc. Bên cạnh kiến trúc cổ, cùng với sự vƣơn lên về

kinh tế, những công trình hiện đại của Trung Quốc cũng không kém phần hấp dẫn.

Đến Bắc Kinh, ngoài các di tích cổ, du khách có thể ngắm phố đêm Tràng An lộng

lẫy; dạo phố đi bộ Nam Kinh…là những điểm không thể thiếu trong hành trình của

khách tham quan. Cho đến nay, hầu hết tài nguyên du lịch của Trung Quốc đã đƣợc

tổ chức khai thác, dù hiệu quả không đồng đều. Việc khai thác tài nguyên du lịch

cùng với việc tổ chức các dịch vụ du lịch ngày càng hoàn hảo hơn đã làm cho thế

giới biết đến các sản phẩm du lịch đậm sắc màu Trung Quốc, có sức hấp dẫn cao

đối với du khách. Giáo sƣ Vƣơng Lập Cƣơng – Viện trƣởng Viện nghiên cứu du

lịch Trung Quốc cho biết, năm 2007 Trung Quốc đón hơn 50 triệu khách quốc tế,

chính từ những sản phẩm du lịch độc đáo của mình.

Hiện nay, hầu nhƣ ở các địa phƣơng của Trung Quốc đều xây dựng thành

công phố đi bộ - mua sắm theo mô hình Vƣơng Phủ Tỉnh của Bắc Kinh. Các thành

phố lớn của Trung Quốc đã xây dựng thành công mô hình du lịch kết hợp thƣơng

mại, thu hút khách du lịch đến không chỉ tham quan, mà còn mua sắm, tìm hiểu thị

trƣờng, tìm kiếm cơ hội đầu tƣ. Cục phó Cục du lịch Bắc Kinh Ôn Tử Cát cho biết,

hiện nay trong số hơn 3 triệu du khách nƣớc ngoài đến thành phố mỗi năm, có

khoảng 30% là du khách thƣơng mại.

1.2. Nêu bật tính riêng có, đặc thù của từng điểm du lịch



81



Điều đáng suy ngẫm là, cũng những tài nguyên du lịch nổi tiếng - thậm chí

“độc nhất vô nhị” trên thế giới, nhƣng trƣớc đây do thiếu khả năng tổ chức khai thác

nên sản phẩm du lịch Trung Quốc đơn điệu. Cho đến nay, với các chƣơng trình số

lƣợng phong phú, đa dạng, các yếu tố văn hoá của 56 dân tộc, của các địa phƣơng,

của mỗi vùng đều có dấu ấn riêng trong sản phẩm du lịch của Trung Quốc. Chƣơng

trình du lịch hang động, du lịch trƣợt tuyết ở phƣơng Bắc, du lịch nhiệt đới, du lịch

sông hồ ở phƣơng Nam với những món ăn lạ miệng, với những đồ lƣu niệm độc đáo

và ngay cả những chƣơng trình biểu diễn văn nghệ, các trang phục của nhân viên

phục vụ trong ngành du lịch… là những ví dụ sống động, gây ấn tƣợng cho du

khách. Ở Hàng Châu, Tô Châu, Quảng Đông, Quảng Tây so với ở Bắc Kinh, kĩ

năng, phong cách của các nhân viên lữ hành đã khác so với các đồng nghiệp ở

Thƣợng Hải, Thiên Tân. Hoạt động du lịch ở Hồng Kông, Ma Cao, Thâm Quyến lại

mang lại sắc thái khác biệt với sự kết hợp tài tình giữa văn hoá du lịch phƣơng

Đông và phƣơng Tây. Tài nguyên du lịch đƣợc bảo vệ , quản lí chu đáo, nghiêm

ngặt và khai thác tối đa. Dẫu không có Vạn Lí Trƣờng Thành, Di Hoà Viên, Cố

Cung, Thập Tam Lăng, Khai Phong Phủ, Thiếu Lâm Tự…, Việt Nam vẫn có thể tổ

chức bảo vệ và khai thác tài nguyên du lịch tốt hơn. Sự kết hợp tham quan với giới

thiệu sản phẩm, bán hàng trong chƣơng trình du lịch nhƣ uống trà Công phu, trà

Long Tỉnh, thƣ giãn trong hiệu thuốc Đông Nhân Đƣờng rộng lớn…đáng để chúng

ta học tập.

1.3. Chú trọng đặc biệt đến việc quảng bá du lịch

Sức hấp dẫnvà sự thành công của ngành du lịch Trung Quốc còn do công tác

quảng bá du lịch luôn đƣợc chú trọng. Những lời quảng cáo ấn tƣợng và hàm súc

nhƣ: “Bất đáo Trƣờng Thành phi Hảo hán” hay “Non nƣớc Quế Lâm đứng đầu

thiên hạ”.. đƣợc truyền tụng từ bao năm qua đã có tác động thôi thúc hàng triệu

khách du lịch đến với Trung Quốc. Chính phủ Trung Quốc luôn quan tâm và có

chính sách để thúc đẩy du lịch phát triển.

Vào dịp Tết âm lịch, ngày Quốc tế lao động 1-5, Quốc khánh hàng năm, Trung

Quốc đều cho nghỉ trọng một tuần, gọi là “tuần lễ Vàng”, để tạo điều kiện cho nhân

dân đi du lịch, mua sắm. Đây là những tuần lễ “bội thu” đối với ngành du lịch. Riêng



82



“Tuần lễ vàng” 1-5 năm 2006, Trung Quốc đón tiếp hơn 100 triệu du khách và ngành

du lịch đạt mức doanh thu 39 tỉ NDT. Bên cạnh đó, việc quy phạm hóa, chuyên môn

hóa đội ngũ cán bộ, hƣớng dẫn viên làm công tác du lịch; tạo hành lang pháp lí, cải tiến

trong việc cấp thị thực nhập cảnh đã tạo tiền đề quan trọng cho tổ chức, thu hút khách.

Có thể nói, ở Trung Quốc, giữa các ngành du lịch, thƣơng mại, hải quan, giao thông

vận tải…. đã tìm đƣợc tiếng nói chung, phối hợp nhịp nhàng.

Vốn đầu tƣ cho du lịch và đào tạo nhân lực ở Trung Quốc hiện nay đƣợc huy

động từ nhiều nguồn, Trung Quốc huy động 5 nguồn vốn vào phát triển du lịch:

Nhà nƣớc, các địa phƣơng, các Bộ ngành, mà quan trọng nhất là Giao thông, Xây

dung, Thƣơng mại, Du lịch; tập thể; cá nhân (cả trong và hợp tác nƣớc ngoài). Với

những nguồn vốn này, thực sự Nhà nƣớc Trung Quốc chỉ đầu tƣ 15%, còn 85% là

từ 4 nguồn còn lại và du lịch Trung Quốc đã có những thay đổi to lớn vả về cơ sở

vật chất kĩ thuật, dịch vụ, tôn tạo,bảo quản lâu dài, tàiu nguyên du lịch và phát triển

môi trƣờng du lịch. Vốn đầu tƣ gắn lion với chính sách mở cửa, năng động với tinh

thần sẵn sàng hỗ trợ tháo gỡ vƣớng mắc từ các địa phƣơng, các ngành cho đến

Trung Ƣơng là một động lực quan trọng cho du lịch Trung Quốc phát triển.

1.4. Tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho ngành du lịch

Trung Quốc xây dựng 4 trung tâm đào tạo và bồi dƣỡng nhân lực du lịch lớn

ở cấp quốc gia. Trung tâm đào tạo bồi dƣỡng lãnh đạo, quản lí du lịch của các tỉnh

thành; Trung tâm đào tạo bồi dƣỡng giám đốc các khách sạn, Trung tâm đào tạo bồi

dƣỡng nghiệp vụ lữ hành và Trung tâm đào tạo bồi dƣỡng nghiệp vụ dịch vụ du

lịch. Tuỳ theo yêu cầu của từng trung tâm, những việc tổ chức các lớp đào tạo

thƣờng xuyên và đột xuất hàng năm do Cục Du lịch Quốc gia chỉ đạo đã góp phần

tăng khả năng kinh doanh du lịch Trung Quốc lên rất nhiều. Việc đào tạo dài hạn tại

các trƣờng Đại học, Học viện Du lịch Trung Quốc vẫn là hƣớng cơ bản và lâu dài.

Nhƣng trƣớc thực tế là cán bộ lãnh đạo quản lí các lĩnh vực hoạt động hoặc chƣa

đào tạo cơ bản, hoặc yêu cầu cần cập nhật tri thức, phƣơng pháp đào tạo từ các

Trung tâm đào tạo bồi dƣỡng quốc gia là rất cần thiết. Việc đào tạo bồi dƣỡng theo

loại hình này thật ra không phức tạp và khá hiệu quả không chỉ ở Trung Quốc. Có lẽ



83



trong tƣơng lai Việt Nam cũng cần định hƣớng tới sự ra đời và hoạt động của Trung

tâm đào tạo -bồi dƣỡng mang tính quốc gia về du lịch.

1.5. Ngoại ngữ yếu là một nhược điểm trong hoạt động du lịch ở Trung Quốc

Tuy nhiên, hạn chế dễ thấy qua các chuyến du lịch ở Trung Quốc là vốn

ngoại ngữ của những ngƣời làm du lịch. Ở nhiều khách sạn cỡ 3 - 4 sao tại các trung

tâm du lịch lớn, những cán bộ, nhân viên phục vụ có khả năng sử dụng ngoại ngữ

thật ít ỏi, ngay cả với những ngoại ngữ có tinh phổ cập quốc tế nhƣ tiếng Anh, tiếng

Pháp,… Các khách sạn ở Hồng Kông, Thƣợng Hải do thực tế đòi hỏi nên đội ngũ

nhân viên có ngoại ngữ khá đông. Nhƣng ở các địa phƣơng khác, kể cả Bắc Kinh,

khách quốc tế Âu-Hoa Kì rất vất vả khi muốn trao đổi hay tìm kiếm thông tin.

Một trong những lí do căn bản khiến du lịch Trung Quốc phát triển nhanh

chóng trong những năm qua là do thu nhập của ngƣời dân đã đƣợc nâng cao đáng

kể. Nếu năm 1978, khi Trung Quốc vừa thực hiện cải cách, mở cửa, thu nhập bình

quân đầu ngƣời/năm là 1459NDT, thì đến 2003, con số này đã đạt khoảng 8.500

NDT. Thu nhập của ngƣời dân tăng cao không chỉ khiến du lịch trong nƣớc sôi

động, mà số ngƣời Trung Quốc đi du lịch nƣớc ngoài cũng tăng lên đáng kể. Sự kết

hợp hài hoà giữa hoạt động du lịch quốc tế với du lịch nội địa đƣợc coi là phƣơng

hƣớng chỉ đạo vĩ mô và xuống tới từng doanh nghiệp. Có thể thấy đƣợc ở các trung

tâm du lịch, các địa danh du lịch Trung Quốc, hệ thống cơ sở vật chất, dịch vụ số

lƣợng, sự quan tâm tới cả khách du lịch quốc tế và khách nội địa đƣợc thể hiện rất

cụ thể. ở các địa danh nổi tiếng nhƣ Vạn Lí Trƣờng Thành, Cố Cung, Trung Hoa

Cẩm Tú, Khổng phủ, Bến Thƣợng Hải…, khách du lịch nội địa rất nhiều và khả

năng thanh toán, chi tiêu cao. Những điều kiện tiềm năng cho phát triển du lịch nội

địa Trung Quốc thuận lợi hơn và rất khác so với Việt Nam song cũng gợi những vấn

đề có tầm quan trọng cơ bản và lâu dài cho du lịch Việt Nam, đặc biệt là phát triển

du lịch nội địa. Với số dân hiện nay và trong tƣơng lai, cùng với sự phát triển kinh

tế - xã hội, du lịch nội địa Việt Nam sẽ phát triển tốt hơn nhiều so với hiện nay. Vấn

đề ngành du lịch cần cụ thể hoá hoạt động kinh doanh du lịch hƣớng vào đối tƣợng

khách này cho phù hợp.



84



Từ những hoạt động tổ chức, kinh doanh và phát triển du lịch Trung Quốc có

thể rút ra đƣợc khá nhiều bài học kinh nghiệm cho du lịch Việt Nam, du lịch văn

hoá, du lịch sinh thái, du lịch mua sắm đang là những loại hình du lịch đƣợc ƣu tiên;

vấn đề bảo vệ môi trƣờng du lịch, nhất quán và chặt chẽ trong chính sách phát triển

du lịch, khai thác tiềm năng du lịch tại chỗ…cũng cần thiết chức cho chúng ta. Tuy

nhiên, những dịch vụ ăn uống, nghiệp vụ, kĩ năng và phong cách phục vụ ăn uống,

mua sắm của đội ngũ nhân viên ở Trung Quốc còn lắm hạn chế, chƣa thực sự tạo

đƣợc cảm tình với du khách. Thực tế đó cũng tạo ra những vấn đề cho du lịch Việt

Nam, trong đào tạo nghề hiện nay và mai sau.

2. Kinh nghiệm của Singapore

2.1. Lựa chọn những vấn đề chủ yếu nhất để có chính sách phát triển mạnh

Du lịch là một trong những ngành mũi nhọn tai Singapore. Trong những năm

vừa qua, Chính phủ Singapore rất chú trọng đầu tƣ cho việc phát triển ngành du lịch,

qua đó đem lại nguồn thu lớn cho ngân sách, đóng góp trên 5% GDP của nƣớc này.

Với dân số 4 triệu ngƣời và diện tích hơn 600 km2, hàng năm Singapore thu hút gần 8

triệu du khách, tạo thu nhập khoảng 11 tỉ Đôla Singapore và hơn 150.000 việc làm.

Một trong những yếu tố tạo thành công cho du lịch Singapore bắt nguồn từ

năm chữ A trong tiếng anh là: điểm thắng cảnh (Attractions), phƣơng tịên giao

thông (Accessibility), cơ sở tiện nghi (Amenities), các dịch vụ hỗ trợ (Ancillary

services) và sự điều chỉnh phù hợp về chính sách (Adjustment).

Để đạt đƣợc những thành tựu trên Singapore rất chú trọng tới việc xây dựng

thƣơng hiệu cho ngành du lịch, tuyên truyền quảng bá hình ảnh du lịch ra nƣớc

ngoài, tích cực hợp tác với các nƣớc trong công tác du lịch, đơn giản hóa các thủ tục

nhập cảnh cho khách du lịch… Để phát triển nguồn khách du lịch, ngành du lịch

Singapore đã mở trên 20 văn phòng đại diện du lịch ở các nƣớc là thị trƣờng trọng

điểm. Từ giữa những năm 1980, chính phủ Singapore đã đầu tƣ hàng trăm triệu

USD nâng cấp các điểm thắng cảnh văn hóa và lịch sử. Sân bay Changi dù liên tục

đƣợc bầu chọn là sân bay tốt nhất thế giới vẫn đang đƣợc đầu tƣ 1,8 tỉ Đôla

Singapore để nâng cấp.

2.2. Có chiến lược phát triển du lịch mềm dẻo và linh hoạt



85



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

×