1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

Ngành dịch vụ du lịch Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 118 trang )


nghiệp Nhà nƣớc trực thuộc Tổng cục Du lịch và ủy ban Nhân dân tỉnh, thành phố và

đặc khu. Tháng 6 năm 1978, Tổng cục Du lịch Việt Nam đƣợc thành lập trực thuộc

Hội đồng Chính phủ, đánh dấu một bƣớc phát triển mới của ngành du lịch.

3.2. Ngành dịch vụ du lịch Việt Nam từ thời kì đổi mới đến nay

Giai đoạn từ 1990 đến nay, cùng với sự nghiệp đổi mới đất nƣớc ngành Du

lịch đã khởi sắc, vƣơn lên đổi mới quản lí và phát triển, đạt đƣợc những thành quả

ban đầu quan trọng, ngày càng tăng cả quy mô và chất lƣợng, dần khẳng định vai

trò của mình. Chỉ thị 46/CP của Ban Bí thƣ Trung ƣơng Đảng khóa VII tháng 10

năm 1994 đã khẳng định “Phát triển du lịch là một hƣớng chiến lƣợc quan trọng

trong đƣờng lối phát triển kinh tế - xã hội nhằm góp phần thực hiện công nghiệp

hóa, hiện đại hóa đất nƣớc”. Cơ chế chính sách phát triển du lịch từng bƣớc đƣợc

hình thành, thể chế hóa bằng văn bản quy phạm pháp luật, tạo môi trƣờng cho du

lịch phát triển, nâng cao hiệu lực quản lí.

Sau 2 năm sáp nhập vào Bộ Văn hóa - Thông tin, rồi vào Bộ Thƣơng Mại,

tháng 11 năm 1992, Tổng cục Du lịch đƣợc thành lập lại, là cơ quan thuộc Chính phủ.

45 năm hình thành và phát triển, đƣợc Đảng và Nhà nƣớc quan tâm, các

ngành, các cấp phối hợp giúp đỡ, nhân dân hƣởng ứng, bạn bè quốc tế ủng hộ, cùng

với sự cố gắng của cán bộ, công nhân viên toàn ngành, Du lịch Việt Nam đã có

những tiến bộ đáng ghi nhận trong việc chuẩn bị hành trang để vững bƣớc tiến vào

thế kỉ 21 với vai trò ngành kinh tế mũi nhọn, góp phần vào sự nghiệp phát triển kinh

tế - xã hội của đất nƣớc.

Trong những năm qua, ngành du lịch Việt Nam tăng trƣởng tƣơng đối ổn định với

tốc độ trung bình ở mức tƣơng đối cao (khoảng 20%), thị phần du lịch Việt Nam trong khu

vực đã tăng từ 5% năm 1995 lên trên 8% năm 2005, thu nhập từ ngành du lịch tăng lên

nhiều lần. Đây là một thành công lớn góp phần giúp du lịch trở thành một ngành có đóng

góp lớn vào GDP5.



5



Tổng Cục Du lịch Việt Nam (2005), Báo cáo tóm tắt thành tích 45 năm xây dựng và trƣởng thành của Ngành Du lịch

Việt Nam,



13



Giai đoạn 1990-2000 có thể khẳng định là giai đoạn bứt phá trong tăng

trƣởng kháchvà thu nhập. Khách quốc tế tăng trên 9 lần, từ 250.000 lƣợt (năm

1990) lên 2,05 triệu lƣợt (năm 2000); khách nội địa tăng 11 lần, từ 1 triệu lƣợt lên

11 triệu lƣợt; thu nhập du lịch tăng gần 13 lần từ 1.350 tỷ đồng lên 17.400 tỷ đồng.

5 năm gần đây (2000-2005), tuy phải đối mặt với rất nhiều khó khăn nhƣ chiến

tranh, khủng bố, dịch SARS và cúm gia cầm, nhƣng do áp dụng các biện pháp táo

bạo tháo gỡ kịp thời, nên lƣợng khách và thu nhập du lịch hàng năm vẫn tiếp tục

tăng trƣởng 2 con số. Khách quốc tế năm 2001 đạt 2,33 triệu lƣợt, năm 2005 đạt gần

3,47 triệu lƣợt, khách nội địa năm 2001 đạt 11,7 triệu lƣợt, năm 2005 đạt 16,1 triệu;

ngƣời Việt Nam đi du lịch nƣớc ngoài năm 2005 khoảng 900.000 lƣợt. Du lịch phát

triển đã góp phần tăng tỷ trọng ngành dịch vụ (riêng GDP du lịch chiếm khoảng 4%

GDP cả nƣớc, theo cách tính của UNWTO thì con số này khoảng 10%). Du lịch là

một trong ít ngành kinh tế ở nƣớc ta mang lại nguồn thu trên 2 tỷ USD/năm. Hơn 10

năm trƣớc, du lịch Việt Nam đứng hàng thấp nhất khu vực, nhƣng đến nay khoảng

cách này đã đƣợc rút ngắn, đã đuổi kịp và vƣợt Philippin, chỉ còn đứng sau

Malaysia, Singapore, Thái Lan và Indonesia. Theo UNWTO, hiện nay Việt Nam là

một trong những nƣớc có tốc độ tăng trƣởng du lịch cao nhất khu vực và thế giới.

Năm 2006, du lịch Việt Nam đƣợc Hội đồng du lịch và Lữ hành thế giới xếp thứ 7

thế giới về tăng trƣởng khách trong số 174 nƣớc; Việt Nam đƣợc xếp vào nhóm 10

điểm đến hàng đầu thế giới6.

Hiệu quả chiều sâu về nhiều mặt của du lịch ngày càng rõ nét. Ở đâu du lịch

phát triển, ở đó diện mạo đô thị, nông thôn đƣợc chỉnh trang, sạch đẹp hơn, đời

sống nhân dân đƣợc cải thiện rõ rệt. Hoạt động du lịch đã thúc đẩy các ngành khác

phát triển, tạo ra khả năng tiêu thụ tại chỗ cho hàng hóa và dịch vụ; mỗi năm, hàng

chục lễ hội truyền thống đƣợc khôi phục, tổ chức dần đi vào nề nếp và lành mạnh,

phát huy đƣợc thuần phong Hoa Kì tục. Nhiều làng nghề thủ công truyền thống

đƣợc khôi phục và phát triển, tạo thêm các điểm tham quan du lịch, sản xuất hàng



6



Hoàng Hà, Du lịch Việt Nam, 3:05:47PM 9/29/2006, http://www.tiasang.com.vn/news?id=2345



14



lƣu niệm, thủ công Hoa Kì nghệ bán cho khách, nhân dân có thêm việc làm và thu

nhập; góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập, xóa đói giảm

nghèo và nhiều hộ dân ở không ít địa phƣơng đã giàu lên nhờ làm du lịch. Du lịch

phát triển đã tạo thêm nguồn thu để tôn tạo, trùng tu các di tích và nâng cao ý thức

trách nhiệm của các cơ quan Nhà nƣớc, chính quyền địa phƣơng và cộng đồng dân

cƣ giữ gìn, phát triển di sản văn hóa. Tuyên truyền, quảng bá du lịch ở nƣớc ngoài

và tại chỗ trong nƣớc đã truyền tải đƣợc giá trị văn hóa nhân dân tộc đến bạn bè

quốc tế, khách du lịch và nhân dân.

Điều quan trọng hơn cả là du lịch đã góp phần phát triển yếu tố con ngƣời

trong công cuộc đổi mới. Hoạt động du lịch đã tạo ra trên 80 vạn việc làm trực tiếp

và gián tiếp cho các tầng lớp dân cƣ, góp phần nâng cao dân trí, đời sống vật chất và

tinh thần cho nhân dân; mở rộng giao lƣu giữa các vùng, miền trong nƣớc và với

nƣớc ngoài; đã thực hiện tốt vai trò ngoại giao nhân dân với chức năng “sứ giả” của

hòa bình, góp phần hình thành, củng cố môi trƣờng cho nền kinh tế mở, đẩy mạnh

phát triển kinh tế- xã hội và tranh thủ sự đồng tình, ủng hộ quốc tế đối với sự nghiệp

xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Du lịch Việt Nam đã vƣơn lên, tham gia chủ động dần trong hội nhập du lịch

quốc tế; thiết lập và mở rộng quan hệ hợp tác du lịch nhiều mặt với các nƣớc làng

giềng, các nƣớc trong khu vực và thế giới; kí 29 Hiệp định hợp tác du lịch song

phƣơng với những nƣớc là thị trƣờng du lịch trọng điểm và đầu mối giao lƣu quốc

tế và hợp tác du lịch đa phƣơng 10 nƣớc ASEAN; đã có quan hệ bạn hàng với trên

1.000 hãng, trong đó có nhiều hãng lớn, của hơn 60 nƣớc và vùng lãnh thổ7. Du lịch

nƣớc ta là thành viên của Tổ chức Du lịch thế giới, của Hiệp hội Du lịch Châu ÁThái Bình Dƣơng, của Hiệp hội du lịch Đông Nam Á và phát huy đƣợc vai trò, khai

thác tốt quyền lợi hội viên. tham gia chủ động hơn trong hợp tác du lịch tiểu vùng,

khu vực, liên khu vực và thế giới. Nhờ thế đã tranh thủ đƣợc vốn, kinh nghiệm,

công nghệ, nguồn khách để phát triển, chủ động gắn kết với du lịch khu vực và trên



7



Võ Thị Thắng, Tổng Cục Trƣởng Tổng Cục Du lịch Việt Nam, APEC - Cơ hội vàng của du lịch Việt Nam, 4:24:01 PM 13/06/2006,

http://mfo.mquiz.net/WTO/?function=NEF&file=448



15



thế giới. Tính chủ động hội nhập cũng đƣợc thể hiện rõ trong việc thực hiện chủ

trƣơng dựa vào lợi thế so sánh (nhƣ văn hóa, ẩm thực, nguyên liệu, lao động rẻ..)

đầu tƣ ra nƣớc ngoài, chủ yếu là kinh doanh ăn uống ở các nƣớc láng giềng, Nhật

Bản, Đức và Hoa Kì.

Tuy nhiên, nếu xét về giá trị tuyệt đối, quy mô ngành du lịch Việt Nam còn

nhỏ. Tốc độ tăng trƣởng việc làm trong ngành vẫn tiếp tục ở mức thấp hơn so với

mức tăng trung bình của khu vực. Năng lực của các công ty du lịch Việt Nam không

tƣơng xứng với tiềm năng.

Nhìn chung, các ngành hỗ trợ du lịch vẫn chƣa phát triển cùng nhịp với sự

phát triển của ngành du lịch. Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông yếu kém, phƣơng

tiện vận tải lạc hậu, đƣờng vận chuyển hàng không vẫn chƣa đƣợc phát triển đúgn

mức. Công nghệ thông tin chƣa đƣợc ứng dụng nhiều; ứng dụng thƣơng mại điện tử

trong điều hành các tour du lịch và giao dịch giữa các nhà cung cấp dịch vụ du lịch

chƣa đƣợc nhiều, hoạt động xúc tiến du lịch ở nƣớc ngoài còn yếu về số lƣợng và

hiệu quả. Các dịch vụ giải trí, văn hóa, thể thao vẫn chƣa phát triển và các dịch vụ

ngân hàng chƣa đáp ứng đƣợc nhu cầu.

Sản phẩm du lịch chƣa phong phú, đa dạng. ta có nhiều cảnh quan thiên

nhiên đẹp và có bãi biển đƣợc xếp hạng quốc tế, nhƣng trên phạm vi cả nƣớc chƣa

có đƣợc một khu du lịch tầm cỡ và có tên tuổi nhƣ Pataya, Phuket (Thái Lan),

Sentosa (Singapore), Bali (Indonesia), hay Genting, Langkawi (Malaysia). Đặc

điểm này ảnh hƣởng đến việc thu hút đƣợc sự chú ý của khách du lịch, không kéo

dài đƣợc thời gian nghỉ ngơi của khách tại Việt Nam, không tạo cơ hội để tăng chi

tiêu của khách quốc tế tại Việt Nam.

Nguồn nhân lực cho du lịch chƣa đƣợc đào tạo một cách có hệ thống về

chuyên môn và lỹ năng nghề nghiệp. Năng lực ngoại ngữ, kĩ năng công nghệ thông

tin và khả năng giao tiếp còn hạn chế. Các cơ sở đào tạo du lịch phân bổ không

đồng đều, chủ yếu tập trung ở các thành phố lớn. Mặc dù có sự bùng nổ về số lƣợng

các công ty du lịch lữ hành trong nƣớc, song các công ty này cạnh tranh thiếu lành

mạnh về giá, giảm chất lƣợng dịch vụ, vi phạm các yêu cầu về giấy phép hành nghề.



16



Hiện nay sự liên kết, hợp tác giữa các Bộ ngành, địa phƣong, lãnh thổ tuy gần

đây có nhiều tiến bộ nhƣng vẫn còn yếu hoặc thiếu (Tổng Cục Du lịch, Bộ Tài nguyên

và môi trƣờng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Giao thông vận tải, Bộ Công

An), đặc biệt là việc quản lí các nguồn lực tự nhiên. Cũng chƣa có sự phối hợp chặt chẽ

giữa các ngành (tài chính, ngân hàng, hàng không, biên phòng, hải quan, điện lực và

viễn thông...) trong hỗ trợ phát triển du lịch. Bên cạnh đó, hệ thống thống kê áp dụng

trong ngành du lịch Việt Nam cũng chƣa đƣợc cải tiến nhiều.

Vấn đề cảnh quan môi trƣờng du lịch chƣa đƣợc chú trọng đúng mức: Với

nguồn tài nguyên du lịch phong phú bao gồm các di sản thế giới, truyền thông lịch

sử phong phú, các làng nghề và các lễ hội truyền thống, những cảnh đẹp thiên nhiên

phong phú và sự đa dạng của các nền ch dân tộc, thời gian gần đây Việt Nam đã nổi

lên và trở thành một điểm đến hấp dẫn, an toàn cho du khách quốc tế. Tuy nhiên sự

gia tăng lớn về khách du lịch, trong khu việc giữ gìn cảnh quan, môi trƣờng tại các

khu, điểm du lịch lại chƣa đƣợc chú trọng đúng mức đã và đang gây ra các tác động

không tốt tới môi trƣờng du lịch.

II. NGÀNH DỊCH VỤ DU LỊCH VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP

1. Khái niệm. đặc điểm và yêu cầu của HNKTQT đối với ngành dịch vụ du lịch

1.1. Khái niệm về hội nhập kinh tế quốc tế

Hội nhập kinh tế quốc tế là tiến trình mà chủ thể là các quốc gia, các doanh

nghiệp tham gia vào môi trƣờng kinh doanh mang tính chất toàn cầu, khu vực với

các quy luật chung (luật chơi) mang và có yếu tố cạnh tranh.

Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ thực chất là quá trình gắn kết

ngành dịch vụ Việt Nam với dịch vụ thế giới với mục tiêu giành thị trƣờng, tranh

thủ vốn, công nghệ, kinh nghiệm của các nƣớc và các tổ chức quốc tế, tham gia

phân công lao động quốc tế để khai thác tiềm năng bên ngoài, kết hợp và phát huy

tối đa nội lực nhằm không ngừng nâng cao sức mạnh và vị thế của nền kinh tế Việt

Nam.

Đây cũng là quá trình mở cửa ngành dịch vụ của Việt Nam, điều chỉnh các

chính sách, luật lệ của Việt Nam cho hợp với thông lệ quốc tế và các hiệp ƣớc, hiệp

định mà Việt Nam đã kí kết và cam kết với các nƣớc, các tổ chức quốc tế. Quá trình



17



hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, và hội nhập trong lĩnh vực dịch vụ phải đảm bảo

nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng và các bên cùng có

lựo, phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ƣớc quốc tế mà

Việt Nam kí kết hoạc tham gia, tăng cƣờng quan hệ hợp tác hữu nghị và hiểu biết

lẫn nhau giữa các dân tộc.

1.2. Đặc điểm

Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ có những đặc điểm cơ bản sau:

Một là, hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ là một quá trình mà

trọng tâm là đƣa ngành dịch vụ Việt Nam hội nhập vào ngành dịch vụ thế giới và

mở cửa ngành dịch vụ. Đó vừa là đòi hỏi khách quan, vừa là nhu cầu nội tại của sự

phát triển ngành dịch vụ Việt Nam khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh

tế thế giới. Điều đó xuất pháp từ việc phải thực hiện các nội dung:

- Kí kết và tham gia các định chế và tổ chức quốc tế; cùng các thành viên

đàm phán xây dựng các luật chơi chung và thực hiện các quy định, cam kết đối với

các thành viên của các định chế, tổ chức đó;

- Tiến hành các công việc cần thiết ở trong nƣớc bảo đảm đạt đƣợc mục tiêu

của quá trình hội nhập cũng nhƣ thực hiện các quy định, cam kết quốc tế về dịch vụ.

Cụ thể là cần điều chỉnh các chính sách trong nƣớc theo hƣớng tự do hóa, mở cửa,

giảm thiểu và tiến tới dỡ bỏ các rào cản làm cho việc di chuyển của khách du lịch

ngày càng thuận tiện, thông thoáng hơn.

- Thực hiện các cam kết của WTO về việc mở cửa thị trƣờng dịch vụ. Đồng

thời quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới và tham gia vào các hoạt động xúc tiến

phát triển dịch vụ, hội nhập vào thị trƣờng dịch vụ thế giới một cách toàn diện.

Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ diễn ra ở nhiều cấp độ

khác nhau với nhiều hình thức phong phú và đa dạng. Tùy theo tình hình thời gian

và không gian cụ thể mà sự tham gia hội nhập dịch vụ quốc tế đƣợc thực hiện theo

các cấp độ sau: đơn phƣơng, song phƣơng hoặc đa phƣơng. Các cấp độ tham gia

này đƣợc biểu hiện dƣới nhiều vẻ khác nhau, có thể từ thấp đến cao, từ song

phƣơng đến đa phƣơng, cũng có khi tham gia cùng một lúc ở nhiều cấp độ. Hội

nhập kinh tế quốc tế trong ngành dịch vụ cũng có thể đƣợc tiến hành ở nhiều cấp độ



18



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

×