1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

II. NGÀNH DỊCH VỤ DU LỊCH VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH HỘI NHẬP

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.31 MB, 118 trang )


hội nhập kinh tế quốc tế nói chung, và hội nhập trong lĩnh vực dịch vụ phải đảm bảo

nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình đẳng và các bên cùng có

lựo, phù hợp với các quy định của pháp luật Việt Nam và các điều ƣớc quốc tế mà

Việt Nam kí kết hoạc tham gia, tăng cƣờng quan hệ hợp tác hữu nghị và hiểu biết

lẫn nhau giữa các dân tộc.

1.2. Đặc điểm

Hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ có những đặc điểm cơ bản sau:

Một là, hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ là một quá trình mà

trọng tâm là đƣa ngành dịch vụ Việt Nam hội nhập vào ngành dịch vụ thế giới và

mở cửa ngành dịch vụ. Đó vừa là đòi hỏi khách quan, vừa là nhu cầu nội tại của sự

phát triển ngành dịch vụ Việt Nam khi nền kinh tế Việt Nam hội nhập với nền kinh

tế thế giới. Điều đó xuất pháp từ việc phải thực hiện các nội dung:

- Kí kết và tham gia các định chế và tổ chức quốc tế; cùng các thành viên

đàm phán xây dựng các luật chơi chung và thực hiện các quy định, cam kết đối với

các thành viên của các định chế, tổ chức đó;

- Tiến hành các công việc cần thiết ở trong nƣớc bảo đảm đạt đƣợc mục tiêu

của quá trình hội nhập cũng nhƣ thực hiện các quy định, cam kết quốc tế về dịch vụ.

Cụ thể là cần điều chỉnh các chính sách trong nƣớc theo hƣớng tự do hóa, mở cửa,

giảm thiểu và tiến tới dỡ bỏ các rào cản làm cho việc di chuyển của khách du lịch

ngày càng thuận tiện, thông thoáng hơn.

- Thực hiện các cam kết của WTO về việc mở cửa thị trƣờng dịch vụ. Đồng

thời quảng bá hình ảnh Việt Nam ra thế giới và tham gia vào các hoạt động xúc tiến

phát triển dịch vụ, hội nhập vào thị trƣờng dịch vụ thế giới một cách toàn diện.

Hai là, hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ diễn ra ở nhiều cấp độ

khác nhau với nhiều hình thức phong phú và đa dạng. Tùy theo tình hình thời gian

và không gian cụ thể mà sự tham gia hội nhập dịch vụ quốc tế đƣợc thực hiện theo

các cấp độ sau: đơn phƣơng, song phƣơng hoặc đa phƣơng. Các cấp độ tham gia

này đƣợc biểu hiện dƣới nhiều vẻ khác nhau, có thể từ thấp đến cao, từ song

phƣơng đến đa phƣơng, cũng có khi tham gia cùng một lúc ở nhiều cấp độ. Hội

nhập kinh tế quốc tế trong ngành dịch vụ cũng có thể đƣợc tiến hành ở nhiều cấp độ



18



quốc gia hoặc cấp địa phƣơng hay một tổ chức, doanh nghiệp cung cấp dịch vụ...

Điều đó phụ thuộc vào từng nội dung cụ thể của hoạt động du lịch, sự phân cấp

quản lí trong lĩnh vực dịch vụ.

Ba là, quá trình mở cửa ngành dịch vụ là quá trình phức tạp, vừa hợp tác vừa

đấu tranh lẫn nhau

Trên thế giới, lực lƣợng tham gia toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập kinh tế

quốc tế bao gồm nhiều nƣớc khác nhau. Mặc dù vậy, có thể dựa trên hai tiêu thức

cơ bản sau để phân loại các nƣớc tham gia.

- Nếu căn cứ theo định hƣớng phát triển củamỗi loại nƣớc có thể chia thành:

các nƣớc tƣ bản chủ nghĩa; các nƣớc dân tộc chủ nghĩa vừa thoát khỏi ách đô hộ

thực dân; các nƣớc đi theo con đƣờng xã hội chủ nghĩa.

- Nếu căn cứ theo trình độ phát triển có thể chia thành: các nƣớc phát triển,

các nƣớc đang phát triển; các nƣớc chậm phát triển.

Hội nhập kinh tế quốc tế, mỗi quốc gia theo đuổi những mụ tiêu và lợi ích

khác nhau, thậm chí đối lập nhau. Các nƣớc phát triển đứng đầu là Hoa Kì không

chỉ theo đuổi mục tiêu lợi nhuận mà còn tìm mọi cách để chi phối thị trƣờng thế

giới, mƣu toan áp đặt cái gọi là “giá trị của Hoa Kì và phƣơng Tây” ra toàn thế giới.

Các nƣớc dân tộc chủ nghĩa, các nƣớc đang phát triển và chậm phát triển cũng

muốn tranh thủ và lợi dụng quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế để có

điều kiện xây dựng và phát triển kinh tế độc lập của mình. Các nƣớc theo con

đƣờng xã hội chủ nghĩa với nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, tham gia quá

trình toàn cầu hóa kinh tế để tranh thủ những điều kiện thuận lợi của môi trƣờng

kinh tế quốc tế phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế theo con đƣờng xã hội chủ nghĩa.

Mở cửa ngành dịch vụ cũng không nằm ngoài bối cảnh cung đó. Ngành dịch

vụ Việt Nam muốn phát triển phải hội nhập với ngành dịch vụ thế giới. Trong quá

trình hội nhập, dịch vụ Việt Nam cũng phải đấu tranh với những mục tiêu đối lập lại

lợi ích của Việt Nam, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, xây dựng bản sắc

du lịch riêng của Việt Nam, đƣa ngành dịch vụ Việt Nam phát triển góp phần vào

công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nƣớc.



19



Điều đó cho thấy quá trình hội nhập kinh tế quốc tế chứa đựng những quan

hệ lợi ích chằng chịt, đầy mâu thuẫn, phức tạp, vừa hợp tác, vừa đấu tranh với nhau.

Bốn là, hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ thực chất là tham gia

cạnh tranh trên thị trƣờng quốc tế và ngay trong thị trƣờng nội địa.

Trong bối cảnh Việt Nam đã là thành viên của WTO, việc mở cửa nền kinh

tế Việt Nam, hạ thấp hàng rào thuế quan, dỡ bỏ các rào cản sẽ đƣợc thực hiện một

cách triệt để trong thời gian ngắn. Các doanh nghiệp du lịch của Việt Nam phải

vƣơn ra thị trƣờng thế giới và các doanh nghiệp du lịch quốc tế sẽ vào thị trƣờng

Việt Nam. Do đó, không những phải cạnh tranh trên thị trƣờng thế giới mà du lịch

Việt Nam còn phải cạnh tranh ngay tại thị trƣờng trong nƣớc. Để hội nhập trong

lĩnh vực du lịch có hiệu quả, phải ra sức tăng cƣờng nội lực, đổi mới, điều chỉnh cơ

chế, chính sách cho phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều này nhiều khi có cảm tƣởng

là cá nƣớc tham gia bị ép phải đổi mới, mở cửa, nhƣng thực ra đó là vì sự phát triển

của chính mình.

Do vậy, hội nhập kinh tế quốc tế trong lĩnh vực dịch vụ là hệ quả của toàn

cầu hóa kinh tế, là quá trình vừa hợp tác vừa đấu tranh với nhau diễn ra ở nhiều cấp

độ, quy mô và phƣơng thức mà trọng tâm là mở cửa ngành dịch vụ thông qua đổi

mới các luật lệ, chính sách, cơ chế tập quán kinh doanh cho phù hợp với thông lệ

quốc tế, nhằm tạo điều kiện huy động tối đa sức mạnh của nội lực, kết hợp với

ngoại lực để thúc đẩy ngành dịch vụ phát triển, hƣớng tới chiếm một vị trí chiến

lƣợc trong nền kinh tế quốc dân.

1.3. Yêu cầu của HNKTQT đối với ngành dịch vụ

Khu vực dịch vụ nói chung và thƣơng mại dịch vụ nói riêng ngày càng đóng

vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia, nhất là trong bối cảnh

quá trình toàn cầu hoá và việc ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ đang diễn

ra mạnh mẽ. Sự phát triển các lĩnh vực có hàm lƣợng tri thức và giá trị gia tăng cao

cũng nhƣ sự liên kết chặt chẽ giữa dịch vụ với các ngành công nghiệp và nông nghiệp

là một nhân tố quyết định đảm bảo khả năng cạnh tranh của một nền kinh tế.

Đối với với các nƣớc đang phát triển nhƣ Việt Nam, những nguồn lợi và cơ

hội xuất khẩu lớn nhất bắt nguồn từ các ngành dịch vụ nhƣ du lịch, vận tải và xuất



20



khẩu lao động. Chính vì thế, Nhà nƣớc ta đã có nhiều chủ trƣơng, chính sách tạo

điều kiện thuận lợi cho hoạt động dịch vụ phát triển, nhờ vậy khu vực dịch vụ đáp

ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu sản xuất, tiêu dùng và đời sống dân cƣ, góp phần

đẩy nhanh tăng trƣởng kinh tế.

Những ngƣời tiêu dùng dịch vụ sẽ có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ một

cách dễ dàng hơn. Tính đa năng của các dịch vụ đƣợc cung cấp cũng sẽ làm cho

những nhu cầu khác nhau của ngƣời dân đƣợc thoả mãn ở mức độ cao nhất. Việc thị

trƣờng đƣợc tự do hoá, cạnh tranh giữa các nhà cung cấp dịch vụ tăng lên, giúp cho

ngƣời dân đƣợc hƣởng các dịch vụ một cách tốt nhất. Bên cạnh đó, việc một số thị

trƣờng dịch vụ hạ tầng, nhƣ dịch vụ tài chính, viễn thông, vận tải đƣợc tự do hoá sẽ

tác động đến mọi ngành nghề trong nền kinh tế nói chung và các lĩnh vực nói riêng.

Điều này thể hiện ở việc các chi phí cho sản xuất, kinh doanh dịch vụ giảm, ngƣời

dân có cơ hội tiếp cận dịch vụ với giá thấp hơn. Các dịch vụ hạ tầng còn là đầu vào

cho các ngành sản xuất hàng hoá khác, nên chi phí sản xuất và giá cả hàng hoá cũng

giảm theo. Nhƣ vậy, nhờ có tự do hoá thƣơng mại dịch vụ, lợi ích của ngƣời tiêu

dùng sẽ đƣợc nâng lên qua hai kênh: giảm giá cả hàng hóa - dịch vụ, và gia tăng

mức độ đa dạng của dịch vụ đƣợc cung cấp.

Về phía nhà cung cấp dịch vụ, tự do hoá thị trƣờng dịch vụ sẽ tạo điều kiện

cho các nhà cung cấp nâng cao lợi nhuận của mình. Nhƣ đã nói ở trên, việc tự do

hoá thị trƣờng dịch vụ dẫn đến việc gia tăng cạnh tranh và mức độ hiệu quả của các

thị trƣờng dịch vụ hạ tầng, qua đó giảm chi phí, lợi nhuận tăng. Hơn nữa, với cam

kết mở cửa ngành dịch vụ, tính minh bạch trong chính sách của Chính phủ sẽ đƣợc

nâng cao đáng kể. Quá trình đƣa ra quyết định sản xuất, kinh doanh của doanh

nghiệp sẽ phần nào trở nên dễ dàng hơn, vì thế các doanh nghiệp không phải tốn chi

phí để theo dõi những thay đổi trong chính sách. Việc mở cửa thị trƣờng dịch vụ tạo

ra những cơ hội to lớn cho các doanh nghiệp trong nƣớc tiếp cận đƣợc thị trƣờng

thế giới, tiếp cận thêm đƣợc đầu tƣ, công nghệ và kĩ năng quản lí mới từ bên ngoài.

Ngoài ra, mở cửa các thị trƣờng dịch vụ trong nƣớc nhằm tạo ra các cơ hội

việc làm mới và thúc đẩy năng suất và đổi mới. Việc cải cách các thị trƣờng dịch vụ



21



sẽ mang lại các cơ hội cho các công ty triển khai các dịch vụ mới, đáp ứng nhu cầu

đang tăng và tạo việc làm.

Nhìn từ khía cạnh tổng thể của nền kinh tế, tự do hoá thị trƣờng dịch vụ sẽ

làm tăng hiệu quả sử dụng các nguồn lực. Trƣớc hêt, mở cửa thị trƣờng dịch vụ sẽ

có khuyến khích quá trình chuyển giao công nghệ. Thông qua cạnh tranh giữa các

doanh nghiệp, các nguồn lực đầu vào nhƣ sức lao động, vốn, công nghệ cũng nhƣ

các tài nguyên khác sẽ đƣợc phân bổ một cách hiệu quả. Không có hiện tƣợng một

ngành nào đó sử dụng quá nhiều hoặc quá ít nguồn lực, vì các nhân tố này sẽ đƣợc

phân bổ cho đến khi hiệu quả cận biên của chúng đƣợc cân bằng. Mở cửa thị trƣờng

dịch vụ, do đó, có thể đóng góp vốn cho tăng trƣởng và phát triển bằng cách khuyến

khích nhập khẩu dịch vụ với giá rẻ hơn và thay thế cho các dịch vụ mà trong nƣớc

cung cấp kém hiệu quả hơn. Điều này sẽ giúp giải phóng các tài nguyên và nguồn

lực cho các mục đích khác. Hơn nữa, bản thân việc mở cửa thị trƣờng dịch vụ cũng

có vai trò củng cố và xúc tiến xuất nhập khẩu hàng hoá. Điều này là do các chi phí

liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá nhƣ chi phí thanh toán, bảo hiểm, vận tải...

đƣợc giảm đáng kể nhờ các rào cản với những dịch vụ này đã bị dỡ bỏ.

Hơn nữa, dòng FDI trên thế giới hiện đang có xu hƣớng tập trung vào lĩnh

vực dịch vụ. Là một nƣớc tiếp nhận đầu tƣ, Việt Nam có nhiều cơ hội để thu hút

vốn FDI vào lĩnh vực này. Việc mở cửa thị trƣờng dịch vụ cho nhà đầu tƣ nƣớc

ngoài sẽ tạo điều kiện để đa dạng hoá và nâng cao chất lƣợng phát triển của các

ngành dịch vụ, qua đó, góp phần tăng trƣởng kinh tế, tạo thêm giá trị gia tăng và

nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam. Ngƣợc lại, sự tăng trƣởng và phát

triển của các ngành dịch vụ cũng tạo điều kiện để Việt Nam tăng sức hấp dẫn và

cạnh tranh thu hút FDI vào các ngành kinh tế khác.

Trong thế giới ngày nay, thực tế không có một quốc gia nào, không một nhà

hoạch định chính sách nào chống lại hội nhập kinh tế quốc tế. Đi ngƣợc lại một xu

thế của thời đại, dẫu đó là một xu thế phức tạp chứa đựng cả những mặt tiêu cực,

những mƣu đồ của siêu cƣờng này, càng quốc khác, không bao giờ là dấu hiệu của

sự sáng suốt. Ngành dịch vụ của Việt Nam không thể đứng ngoài xu thế này. Hội



22



nhập trong lĩnh vực dịch vụ là một tất yếu khách quan và cũng đáp ứng đƣợc đòi

hỏi nội tại của ngành vì sự phát triển của lĩnh vực dịch vụ Việt Nam.

2. Yêu cầu của hội nhập kinh tế quốc tế đối với ngành dịch vụ du lịch Việt Nam

2.1. Hội nhập kinh tế quốc tế đặt ra yêu cầu tự do hoá dịch vụ du lịch

Toàn cầu hóa đƣợc khởi nguồn từ các nƣớc phát triển, nhƣng đến nay nó

đang lôi kéo đƣợc tất cả các nƣớc tham gia, kể cả các nƣớc chậm phát triển. Tính tất

yếu của nó đƣợc bắt nguồn từ bản chất của hệ thống kinh tế thị trƣờng vốn là hệ

thống mở, không hạn chế bởi các đƣờng biên giới quốc gia, ranh giới dân tộc,

chủng tộc và tôn giáo. Nó đƣợc quy định bởi những lợi ích thu đƣợc từ quá trình

toàn cầu hóa.

Đây là một tất yếu bởi tất cả các nƣớc trên thế giới, từ nƣớc công nghiệp phát

triển cho tới những nƣớc đang phát triển, muốn phát triển đƣợc nền kinh tế của

nƣớc mình không thể độc lập mà phát triển đƣợc. Do vậy xuất phát từ lợi ích của

mình, các nƣớc liên kết với nhau để cùng phát triển. Các liên kết kinh tế khu vực và

liên khu vực phát triển mạnh mẽ, nhất là từ 1990 đến nay tăng đột biến. Hiện nay có

khoảng 250 tổ chức liên kết khu vực trên toàn thế giới. Các liên kết khu vực, liên

khu vực và toàn cầu đang ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong hoạt động

thƣơng mại quốc tế, nó điều tiết hoạt động thƣơng mại giữa các nƣớc. Các tổ chức

liên kết khu vực và liên khu vực, đặc biệt là WTO đề ra các định chế điều tiết

thƣơng mại thế giới, thƣơng mại quốc tế là bị phụ thuộc bởi các định chế đó. Hiện

nay, 90% lƣu lƣợng thƣơng mại quốc tế thuộc về các tổ chức thƣơng mại.

Quá trình toàn cầu hoá mang lại những hệ quả rất tích cực. Toàn cầu hoá

thúc đẩy sự phát triển và xã hội hoá các lực lƣợng sản xuất, đem lại sự tăng trƣởng

kinh tế cao. Nhƣ vậy, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế tạo thêm những tiền

đề rất quý cho xã hội mới hiện đại của con ngƣời.

Toàn cầu hoá thúc đẩy quá trình tự do hoá dịch vụ trong đó có tự do hoá

ngành dịch vụ du lịch sẽ làm giảm bớt hoặc huỷ bỏ các rào cản ngăn cách, làm cho

việc cung cấp dịch vụ của mỗi nƣớc có thị trƣờng tiêu thụ rộng hơn, do đó kích

thích sản xuất phát triển. Nhờ đó sẽ thúc đẩy phân công lao động quốc tế theo



23



hƣớng chuyên môn hoá, làm cho các nguồn lực ở mỗi nƣớc đƣợc sử dụng hợp lí và

có hiệu quả hơn.

Toàn cầu hoá làm gia tăng các luồng chuyển giao vốn và công nghệ. Quá

trình này tạo thêm khả năng phát triển rút ngắn và mang lại những nguồn lực rất

quan trọng, rất cần thiết cho các nƣớc đang phát triển, từ các nguồn lực vật chất đến

các nguồn lực tri thức và kinh nghiệm cả về tổ chức tiến hành, cả ở tầm vĩ mô của

quốc gia và ở tầm vi mô của từng doanh nghiệp và từng hộ. Toàn cầu hoá và hội

nhập kinh tế quốc tế một mặt gây sức ép mãnh liệt và gay gắt về sức cạnh tranh và

hiệu quả của mỗi nền kinh tế, mỗi doanh nghiệp, chỉ rõ vị trí hàng đầu của yếu tố

chất lƣợng, yếu tố thời gian, yếu tố có giá trị gia tăng để có sức cạnh tranh và hiệu

quả. Mặt khác, toàn cầu hoá mở ra những địa bàn và cách thức hoạt động mới,

những thị trƣờng mới, những đối tác mới cho từng nƣớc, nhất là các nƣớc đang phát

triển. Có thể nói đó là thời cơ lịch sử.

Toàn cầu hoá củng cố và tăng cƣờng các thể chế quốc tế, thúc đẩy sự xích lại

gần nhau giữa các dân tộc,làm cho con ngƣời ở mọi châu lục ngày càng hiểu biết

lẫn nhau, nắm đƣợc tình hình cập nhật ở mọi nơi và có thể góp phần tác động nhanh

chóng đến mọi sự kiện.

Là quốc gia nằm ở trung tâm của khu vực Đông Nam Á, sự phát triển của

ngành du lịch Việt Nam không thể nằm ngoài xu thế phát triển chung của ngành du

lịch khu vực. Bên cạnh đó, do lợi thế về vị trí địa lí, kinh tế - chính trị ổn định, tài

nguyên phong phú,...ngành du lịch Việt Nam có nhiều điều kiện thuận lợi để tăng

cƣờng phát triển trong xu thế hội nhập của khu vực và trên thế giới.

Việt Nam trong tiến trình đổi mới, hội nhập cùng phát triển đƣợc cộng đồng quốc

tế đánh giá là một trong những điểm đến an toàn, cơ hội đầu tƣ hấp dẫn, đƣợc ƣa chuộng

nhất châu Á. Ngành du lịch đƣợc khẳng định là một trong những ngành kinh tế trọng điểm,

góp phần vào sự phát triển của các ngành liên quan. Việt Nam là nƣớc có những bƣớc đi

vững chắc trên con đƣờng hội nhập và đạt đƣợc nhiều thành công: chính trị ổn định, kinh

tế tăng trƣởng, an ninh quốc phòng đƣợc giữ vững. Việt Nam luôn có đủ năng lực và trí

tuệ vƣơn tới những đỉnh cao mới trong hoạt động kinh tế và hợp tác quốc tế.



24



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (118 trang)

×