Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 139 trang )
42
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN THẺ TẠI CÁC
NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
2.1. CƠ SỞ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG THANH
TOÁN THẺ TẠI VIỆT NAM
Hoạt động thanh toán thẻ xuất hiện tại Việt Nam vào những năm 1990 trong bối
cảnh kinh tế- xã hội có những đổi mới cơ bản với một số khái quát chính như
sau:
Thứ nhất, Việt Nam tiến hành chính sách mở cửa kinh tế với những cải
cách quan trọng và toàn diện nền kinh tế vĩ mô. Nhằm đẩy mạnh nền kinh tế của
đất nứớc, năm 1986 Việt Nam đã thực hiện chính sách “đổi mới”, trong đó chính
phủ tiến hành những cải cách quan trọng và toàn diện nền kinh tế vĩ mô theo
những hướng sau:
• Chuyển dịch nền kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường,
nhiều thành phần theo định hướng xã hội chủ nghĩa và chịu sự điều tiết
của Nhà nước.
• Thúc đẩy và đa dạng hóa quan hệ kinh tế đối ngoại.
• Cải cách hệ thống hành chính Nhà nước
Hàng loạt các biện pháp đã được tiến hành như dỡ bỏ việc hỗ trợ tài chính
từ phía Nhà nước, tự do hóa giá cả phá giá tiền tệ và thực hiện chế độ tỷ giá thả
nổi, tự do thương mại trong nước và giảm bớt hàng rào thuế quan đối với hàng
hóa nhập khẩu.
Một khung pháp lý cho nền kinh tế thị trường đã từng bước được hình
thành. Nhằm đảm bảo thuận lợi cho đầu tư trong nước và nước ngoài cũng như
tạo các điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh, Việt Nam đã đưa ra hàng
loạt Luật và Nghị định về kinh tế như: Luật Doanh nghiệp, sửa đổi Luật đầu tư
nước ngoài, Luật Thương mại, Luật thuế xuất nhập khẩu, Bộ luật lao động….
Điều này dẫn đến việc tạo ra sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư nước ngoài, mở
rộng lĩnh vực đầu tư, tạo ra môi trường kinh doanh ổn định, giảm bớt rủi ro và
thủ tục phiền hà trong khi mặt khác lại điều tiết nhập khẩu và đẩy mạnh hoạt
động xuât khẩu.
Đào Thu Trang - Lớp 4031
43
Chính phủ cũng tìm cách tăng hiệu quả của các doanh nghiệp Nhà nước
bằng cách tiến hành cổ phần hóa. Thị trường chứng khoán đầu tư đã được thành
lập tại Thành phố Hồ Chí Minh vào cuối tháng 7 năm 2000 với mục đích thu hút
vốn cho các doanh nghiệp.
Thứ hai, xét về nhu cầu thị trường đối với sản phẩm thẻ, thu nhập quốc
dân tăng, đời sống dân cư được cải thiện chính là cơ sở quan trọng cho việc xuất
hiện loại hình thanh toán mới này. Sau 15 năm, chính sách “đổi mới” đã mang
lại nhiều kết quả quan trọng. Tỷ lệ lạm phát đã có thời điểm lên tới 700% vào
những năm 1980, nay đã được kiềm chế ở mức 6% vào năm 2000. Tăng trưởng
kinh tế đạt trung bình gần 9% trong 3 năm 1995, 1996, 1997. Năm 1998 và 1999
do bị ảnh hưởng nghiêm trọng từ cuộc khủng hoảng tài chính tiền tề ở khu vực
và tình hình thiên tai trong nước nên mức độ tăng trưởng GDP chỉ đạt trên dưới
5%. Tuy nhiên, hoạt động kinh tế có chiều hướng tốt đẹp trở lại vào năm 2000
với mức tăng GDP đạt 6,7%. Nhìn chung, mức tăng trưởng GDP của Việt Nam
đã tăng 2 lần so với thập niên trước.
Biểu đồ 2.1 MỨC TĂNG TRƯỞNG GDP QUA CÁC THỜI KỲ
(Nguồn: Báo cáo thường niên Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1995-2003)
Đào Thu Trang - Lớp 4031
44
Thứ ba, thẻ ngân hàng xuất hiện trong điều kiện hệ thống ngân hàng Việt
Nam được đổi mới cơ bản, cả về cơ cấu và phương thức hoạt động. Trước năm
1988, hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam được thực hiện do chỉ đạo
chung của ngân hàng Nhà nước. Tuy nhiên, với thành quả của quá trình “đổi
mới” nhằm thúc đẩy đầu tư trong nước và nước ngoài, hệ thống ngân hàng Việt
Nam đã dần phát triển đi đôi với việc hình thành các quy định khung về tài
chính ngân hàng.
Theo Quyết định số 53/HDBT ngày 26/3/1988, hệ thống ngân hàng một
cấp đã được thay thế bằng hệ thống ngân hàng hai cấp bao gồm 4 ngân hàng
thương mại quốc doanh (cấp 1) và Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (cấp 2) với
vai trò là ngân hàng trung ương. Năm 1990, Chính phủ đã tiến hành nhiều chính
sách cải cách ngân hàng Việt Nam. Các bộ phận khác của hệ thống ngân hàngcác ngân hàng cổ phần, ngân hàng liên doanh, văn phòng đại diện và chi nhánh
ngân hàng nước ngoài - lần lượt được thành lập sau năm 1990, khi mà các điều
luật cho phép hoạt động được thông qua. Cho tới nay, đã có 4 ngân hàng thương
mại quốc doanh, 43 ngân hàng thương mại cổ phần, 4 ngân hàng liên doanh, 27
chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 53 văn phòng đại diện các ngân hàng nước
ngoài và 153 quỹ tín dụng nhân dân đang hoạt động.
Về hoạt động trong những năm 1990, nhìn chung mức độ phát triển của
hệ thống tài chính của Việt Nam tương đối thấp so với các nước trong khu vực.
Tỷ lệ tiền gửi / GDP của Trung Quốc, Indonexia và Philippine tương ứng là
60%, 50% và 43%. Trong khi tỷ lệ tín dụng /GDP của họ tương ứng là 106%,
58% và 85%. Tín dụng ngân hàng so với GDP tăng từ 13% lên 25% và tiền gửi
GDP tăng từ 10% lên 20%. Đồng thời có một sự giảm sút đáng kể về tỷ trọng tín
dụng của khu vực doanh nghiệp nhà nước từ 90% xuống 48%. Do các thành
phần khác được tham gia vào hệ thống ngân hàng giảm xuống còn 80%.
Có 4 nhiệm vụ cần hoàn thành của chính sách đổi mới ngân hàng là: tiến
hành việc hội nhập nhanh chóng vào cơ chế thị trường nhằm xác định và ra
quyết định cuối cùng về hệ thống cũng như chính sách liên quan; đưa ra kế
hoạch huy động và sử dụng vốn trên thị trường vốn; hiện đại hóa công nghệ
ngân hàng là bước đầu tiến đến việc quốc tế hóa hoạt động ngân hàng và đặc
biệt là nâng cao khả năng quản lý của các tổ chức tài chính. Trong 4 nhiệm vụ
trên thì hiện đại hóa hệ thống ngân hàng Việt Nam đang là một vấn đề hết sức
Đào Thu Trang - Lớp 4031
45
bức thiết. Hệ thống ngân hàng Việt Nam đang đòi hỏi một sự hỗ trợ tạo ra một
lực mới nhằm đáp ứng những thách thức mới trong quá trình tự do hóa thương
mại.
Nhìn chung, do đòi hỏi của nền kinh tế và yêu cầu hội nhập quốc tế, đời
sống kinh tế xã hội cũng như hoạt động của hệ thống ngân hàngViệt Nam ngày
càng hoàn thiện và đó là cơ sở vững chắc cho việc xuật hiện tất yếu của thẻ ngân
hàng tại Việt Nam.
2.2. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN THẺ TẠI VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN QUA
2.2.1. Sự ra đời và phát triển hoạt động thanh toán thẻ tại Việt Nam
Hoạt động thanh toán thẻ xuất hiện tại Việt Nam từ những năm 90, khi
khách du lịch đến Việt Nam và mang theo thẻ tín dụng quốc tế: Visa,
Mastercard, Amex, JCB, Diners Club….Các ngân hàng cung cấp dịch vụ rút tiền
bằng thẻ tín dụng đầu tiên là Vietcombank mở đầu cho ngành kinh doanh thẻ tại
Việt Nam. Có thể chia hoạt động thanh toán thẻ tại Việt Nam làm 2 giai đoạn:
2..2.1.1. Giai đoạn 1990-1996: Phát triển hoạt động chấp nhận thẻ
Hoạt động thanh toán thẻ tại Việt Nam thời kỳ này chủ yếu là chấp nhận
thẻ với vai trò gần như chủ đạo của VCB. Năm 1990, với vai trò trở thành ngân
hàng đầu tiên duy nhất chấp nhận thanh toán thẻ tín dụng quốc tế Visa tại Việt
Nam thông qua hợp đồng đại lý với ngân hàng BFCE Singapore, VCB đã là
ngân hàng tiên phong mở đường cho sự phát triển của một phương thức thanh
toán hiện đại nhất tại Việt Nam lúc bấy giờ.
Tiếp nối thành công với thẻ Visa, VCB liên tiếp ký hợp đồng làm đại lý
thanh toán các loại thẻ tín dụng phổ biến khác với các đối tác nước ngoài, như
thẻ MasterCard với công ty tài chính MBF, Malaysia ( năm 1991), thẻ JCB với
công ty thẻ JCB của Nhật Bản ( năm 1993), thẻ Amex với công ty thẻ American
Express, Hồng Kông ( năm 1994) và đồng thời phát hành thẻ thanh toán
Vietcombank (SmartCard) với công nghệ “chip” vào năm 1993. Tuy nhiên thẻ
Smart Card không gặp được sự hưởng ứng của công chúng vì khi đó điều kiện
kinh tế của Việt Nam còn chưa phát triển, tài khoản tiền gửi cá nhân chưa
nhiều,chỉ tập trung vào một số đối tượng có thu nhập cao, mặt khác các cơ sở
chấp nhận thẻ chưa phổ biến nên thẻ thông minh không được sử dụng rộng rãi
Đào Thu Trang - Lớp 4031
46
để thanh toán hàng hóa, dich vụ mà chủ yếu là để rút tiền mặt. Kết quả là, thẻ
thanh toán này chỉ được chấp nhận trong phạm vi hạn chế tại các máy giao dịch
tự động của VCB, mà hệ thống này sau khi triển khai tỏ ra hoạt động kém hiệu
quả, gặp nhiều hỏng hóc và chỉ được hoạt động trở lại vào năm 1999 khi thị
trường thẻ Việt Nam đã bước sang một giai đoạn khác.
Nhìn chung thời kỳ này là giai đoạn VCB chiếm ưu thế tuyệt đối trong
kinh doanh thẻ với thị phần chiếm giữ 100% và mức tăng trưởng doanh số đạt
mức trên 200% từ năm 1991 tới 1994. Tuy nhiên, sau đấy thị phần của VCB đã
bị giảm sút khi có sự tham gia của một vài ngân hàng nước ngoài có điều kiện
đầu tư máy giao dịch tự động như ANZ, HSBC. Vào năm 1995 thị phần thanh
toán thẻ của VCB giảm xuống còn 80% đối với thẻ Visa, 75% đối với thẻ
MasterCard khi có thêm ACB tham gia vào thị trường. Năm 1996 với việc xuất
hiện thêm 3 NH nữa, thị phần của VCB chỉ còn 69% và 60% cho các loại thẻ
tương ứng kể trên.
2.2.1.2. Giai đoạn 1996 - đến nay: Hoạt động phát hành và chấp nhận thẻ
Năm 1993, VCB đã ứng dụng công nghệ thẻ “thông minh” phát hành thẻ
ngân hàng “Smart Card” đầu tiên tại Việt Nam. Mặc dù loại thẻ này không phát
huy được hiệu quả kinh tế và buộc phải ngừng phát hành vào năm 1999, sự ra
đời của thẻ thông minh là bước thử nghiệm vô cùng quan trọng cho việc chính
thức phát hành thẻ tín dụng quốc tế Visa và Mastercard ở giai đoạn sau đó.
Tháng 4 năm 1996, 4 ngân hàng là Vietcombank, Á Châu, Eximbank và
FirstVina Bank (nay là Chohung Vina Bank) trở thành những thành viên chính
thức đầu tiên của Mastercard tại Việt Nam. Đây là điểm mốc đánh dấu bước tiến
triển đầu tiên của thị trường thẻ Việt Nam và cũng là điểm mốc chấm dứt tư
cách ngân hàng đại lý thanh toán thẻ Mastercard của các ngân hàng Việt Nam
cho bên nước ngoài thứ ba. Chiếc thẻ tín dụng quốc tế đầu tiên do ngân hàng
Việt Nam phát hành là thẻ Vietcombank Master Card ( tháng 4 năm 1996) và
sau đó là thẻ ACB – Mastercard xuất hiện vào quý 3 năm 1996. Sau khi VCB và
ACB được Visa International kết nạp là thành viên chính thức trên hai phương
diện phát hành và thanh toán thẻ năm 1996, thì cũng là lúc VCB chính thức phát
hành thẻ Vietcombank Visa, và ngày 15/10/1997, ACB cũng cho ra đời ACBVISA.
Đào Thu Trang - Lớp 4031
47
Do nhận thức được thị trường thẻ của Việt Nam còn đang trong thời kỳ
khai phá đầu tiên, một số ngân hàng là thành viên đi tiên phong trên thị trường
đã tìm cách hợp tác tương trợ lẫn nhau để cùng tồn tại, tích lũy kinh nghiệm, học
hỏi và phát triển. Chính vì vậy ngày 16/8/1996, Hội các ngân hàng thanh toán
thẻ Việt Nam (VBCA) đã chính thức ra đời với tôn chỉ hợp tác cùng có lợi để
phát triển thị trường thẻ tại Việt Nam. Hội đã đặt những nền móng cơ bản đầu
tiên cho việc VCB ban hành quy chế chính thức về phát hành, sử dụng thanh
toán thẻ ngân hàng sau này. Các ngân hàng thành viên Hội cũng đã thông qua
việc tránh cạnh tranh không lành mạnh bằng cách hạ phí thanh toán đối với các
cơ sở chấp nhận thẻ mà cạnh tranh bằng chất lượng dịch vụ và hệ thống công
nghệ. Mức phí thanh toán tối thiểu được thống nhất áp dụng chung cho các cơ
sở chấp nhận thẻ là 2.5%.
Năm 1998, thương hiệu thẻ Diners Club được ngân hàng liên doanh
Indovina đưa vào thanh toán tại thị trường Việt Nam. Như vậy, tất cả các thương
hiệu thẻ quốc tế thông dụng nhất: Visa, Mastercard, JCB, Amex và Diners Club
đều được chấp nhận tại Việt Nam.
Vào cuối năm 1999 trở lại đây, thị trường thẻ thanh toán Việt Nam bắt
đầu có dấu hiệu phát triển sôi động với ngày càng nhiều các ngân hàng tham gia
vào lĩnh vực dịch vụ này. Bên cạnh thẻ tín dụng quốc tế, thị trường thẻ thanh
toán của Việt Nam còn cho ra đời hàng loạt các sản phẩm mới khác như: thẻ ghi
nợ quốc tế, thẻ tín dụng nội địa, thẻ ghi nợ nội địa. Ngày 19/10/1999, văn bản
chính thức đầu tiên ban hành các quy định cho lĩnh vực này đã ra đời, đó là
Quyết định 371/1999/QĐ- NHNN1 quy định việc phát hành, sử dụng và thanh
toán thẻ ngân hàng.Có thể nói thị trường thẻ của Việt Nam đã được hình thành
và hoạt động đầy đủ.
2.2.2. Thực trạng hoạt động phát hành thẻ tại các Ngân hàng thương mại
Việt Nam
2.2.2.1.Thực trạng phát hành thẻ tín dụng
Theo phân tích trên đây , các ngân hàng Việt Nam có thể phát hành cả thẻ
tín dụng nội địa và thẻ tín dụng quốc tế .Việc phát hành thẻ tín dụng quốc tế
Đào Thu Trang - Lớp 4031
48
đánh dấu bước thay đổi căn bản của thị trường thẻ Việt Nam . Tuy nhiên, hiện
nay chỉ có ba ngân hàng chính thức được phép hành thẻ tín dụng quốc tế là
VCB, Á Châu và Eximbank. Eximbank chỉ mới phát hành thẻ MasterCard từ
năm 2000. NH Á Châu và VCB phát hành hai loại thẻ hàng đầu thế giới : Visa
và MasterCard. Riêng VCB độc quyền phát hành cả thẻ Amex. Sau đây là tình
hình phát hành thẻ tín dụng quốc tế tại thị trường Việt Nam theo con số của Hội
ngân hàng thanh toán thẻ VN tháng 11/2004.
( Nguồn: Báo cáo tổng
kết Hội các ngân hàng thanh toán thẻ VN tháng 11.2004)
Nhìn vào biểu đồ ta thấy, mặc dù tốc độ tăng trưởng số lượng thẻ tín dụng quốc
tế là tương đối lớn (đặc biệt là thẻ Visa vì khách hàng không phải chuyển đổi ngoại
tệ khi tiêu dùng ở nước ngoài) nhưng con số 76.000 thẻ tín dụng quốc tế ở một thị
trường 80 triệu dân vẫn là một con số quá khiêm tốn . Theo con số thống kê của Vụ
chính sách tiền tệ ngân hàng Nhà nước Việt Nam thì thẻ tín dụng quốc tế chiếm
khoảng 37% tổng số thẻ do các ngân hàng trong nước phát hành .
Đứng về thị phần phát hành thẻ tín dụng quốc tế mà nói thì ACB tỏ ra
chiếm vị thế hơn cả trên thị trường và chiếm thị phần khá lớn vượt lên VCB,mặc
dù VCB có lợi thế rất lớn về quy mô và ưu thế . Ta có thể nhìn vào biểu đồ thị
phần phát hành thẻ tín dụng quốc tế sau đây để minh hoạ .
Đào Thu Trang - Lớp 4031
49
Biểu đồ 2.3 THỊ PHẦN THẺ TÍN DỤNG QUỐC TẾ DO NHTM VIỆT NAM
PHÁT HÀNH NĂM 2004
(Nguồn: Báo cáo tổng kết Hội các ngân hàng thanh toán thẻ VN tháng 11.2004)
Xét về mặt nội dung, ta có thể trình bày một số đặc điểm chính của thẻ tín
dụng ACB và VCB qua bảng sau:
Bảng 2.1 SO SÁNH MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM CHÍNH CỦA THẺ TÍN DỤNG ACB
VÀ VCB
Đặc điểm thẻ
Loại thẻ
Thẻ VCB
Thẻ thường/ Thẻ vàng
Thẻ ACB
Thẻ thường /Thẻ vàng
Hạn mức tín dụng
Thẻ thường: 10-50 triệu
đồng
Thẻ vàng: 50-90 triệu
đồng
Thẻ thường: 10-40 triệu
đồng
Thẻ vàng: 40- 50 triệu
đồng
Thời gian ân hạn
Từ 16 đến 45 ngày
Từ 16 đến 45 ngày
Số tiền ký quỹ
Lãi suất tín dụng
125 - 200% hạn mức tín
dụng
125% chỉ áp dụng cho
110% hạn mức tín dụng
người cư trú tại Hà Nội
và TP HCM.
150% của 0,85% một
0,73% một tháng
tháng
Đào Thu Trang - Lớp 4031
50
Phí rút quá giới hạn
Phí rút tiền
Phí thanh toán chậm
Phí thường niên
8-15% hàng năm tùy
thuộc vào thời gian kể
từ khi rút thấu chi
4% tối thiểu
50.000đồng
3% tối thiểu
50.000đồng
Loại thường: 100.000
đồng
Loại vàng: 200.000
đồng
27,35% hàng năm tối
thiểu là 20.000 đồng
4% tối thiểu
60.000đồng
2.95% tối thiểu
50.000đồng
Loại thường:
200.000đồng
Loại vàng:
300.000đồng
( Nguồn: Tổng hợp báo cáo kinh doanh ngân hàng ACB& VCB)
Qua bản phân tích trên ta thấy, để phát hành một thẻ tín dụng quốc tế ,
chủ thẻ luôn phải đảm bảo một khoản ký quỹ trên 100% hạn mức tín dụng .
Hiện nay việc sử dụng tài khoản cá nhân chưa phát triển cho nên muốn phát
hành thẻ, phần lớn khách hàng phải đảm bảo bằng ký quỹ hoặc cầm cố chứng từ
có giá. Ở một thị trường mà hoạt động cho vay tiêu dùng của các tổ chức tín
dụng còn sơ khai, dịch vụ tài chính cá nhân hầu như chỉ có tiết kiệm và bảo
hiểm, các tổ chức tín dụng chưa xây dựng được một bộ tiêu chuẩn về đánh giá
khách hàng cá nhân, thông tin về thu nhập cá nhân cũng không chính xác … thì
việc phát hành thẻ có đảm bảo là điều khó tránh khỏi . Tuy vậy, chính điều này
đã hạn chế sự phát triển của thị trường thẻ, gây ảnh hưởng tâm lý cho chủ thẻ và
đặc biệt là chưa đảm bảo được tính chất cấp tín dụng của thẻ. Bên cạnh đó,
ngoài phí thường niên ra thì các loại phí hoạt động như phí rút tiền mặt, phí
thanh toán chậm … với mức tối thiểu là 50.000 là con số cao đối với thu nhập
của đại bộ phận dân cư. Điều đó hạn chế việc chủ thẻ thực hiện các giao dịch
qua thẻ ngân hàng của mình và ảnh hưởng đến doanh số sử dụng thẻ trên thị
trường.
Đối tượng khách hàng sử dụng thẻ chủ yếu là những người Việt Nam có nhu
cầu đi công tác, du lịch và học tập tại nước ngoài. Một phần khách hàng sử dụng
thẻ là người nước ngoài đang công tác và làm việc tại Việt Nam, chiếm khoảng
10% tổng số. Doanh số sử dụng thẻ tín dụng do các ngân hàng phát hành cũng có
Đào Thu Trang - Lớp 4031
51
nhiều chuyển biến tích cực chủ yếu do nhu cầu thị trường, việc các ngân hàng đã
khắc phục từng bước hiện trạng khó sử dụng thẻ tại các ATM và POS ở nước ngoài
và đặc biệt là các thay đổi trong chính sách cấp phát tín dụng của các ngân hàng .
Nếu trước năm 2000, tổng doanh số sử dụng thẻ chỉ đạt dưới 200 tỷ VNĐ thì từ
năm 2000 doanh số đã tăng trưởng lớn (xem biểu đồ). Chỉ trong vòng 5 năm,
doanh số sử dụng thẻ tín dụng quốc tế đã tăng gấp hơn 5 lần
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hội nghị các NH thanh toán thẻ VN tháng 11-2004)
Nhìn chung, mặc dù có thay đổi theo từng năm nhưng doanh số chỉ tiêu thẻ tại thị
trường nội địa vẫn còn chiếm tỷ lệ quá bé so với doanh số chi tiêu thẻ tín dụng tại
thị trường ngoài nước. Nếu vào những năm 90 tỷ lệ này là khoảng 10% thì từ năm
2000 trở lại đây, tỷ lệ chi tiêu trong nước đã tăng lên khoảng 20 đến 25%. Tình
trạng này chưa được cải thiện là bởi mạng lưới thanh toán thẻ còn quá nhỏ, đơn
điệu về loại hình và không đáp ứng nhu cầu chi tiêu nội địa của chủ thẻ.
Thẻ tín dụng nội địa tỏ ra là một khu vực hoạt động khá hiệu quả của
ngân hàng ACB với 4 lại thẻ tín dụng liên kết rất hữu ích, đó là: thẻ trợ giúp y tế
toàn cầu AXA (phát hành tháng 4/2000); thẻ tín dụng nội địa ACB- Sai gon
Tourist và ACB- Saigon Co- op (phát hành tháng 12/2000); thẻ tín dụng nội địa
ACB - Phước Lộc Thọ và ACB Mai Linh( phát hành tháng 9 năm 2001). Sử
dụng các loại thẻ này, khách hàng có thể thanh toán trước và trả tiền sau mà
không bị tính lãi trong vòng 16- 45 ngày, được chấp nhận thanh toán tại hơn
4000 đại lý nhận thanh toán thẻ và rút tiền thuộc ACB trên toàn quốc và hưởng
ưu đãi từ các đơn vị bán hàng hóa dịch vụ chấp nhận thanh toán. Ví dụ, với thẻ
ACB- Mai Linh, khách hàng sẽ được giảm 8-10% giá tùy theo mức độ sử dụng
dịch vụ của công ty hoạt động trong lĩnh vực hành khách công cộng. Mai Linh
gồm dịch vụ taxi, dịch vụ cho thuê, giảm giá vé máy bay quốc nội, vé máy bay
quốc tế. Với thẻ ACB - Phước Lộc Thọ, khách hàng được giảm giá 5% trên tổng
giá trị thanh toán và được hưởng ưu đãi tại ba hệ thống siêu thị lớn là Maximart,
Citimart và Miền Đông tại TP HCM.
2.2.2.2. Thực trạng phát hành thẻ ghi nợ
Đào Thu Trang - Lớp 4031
52
-
Hiện nay tại Việt Nam đã có một số ngân hàng phát hành thẻ ghi nợ quốc tế:
ngân hàng ANZ phát hành thẻ ghi nợ quốc tế với tên gọi ANZ Access Card,
ngân hàng ACB với hai loại thẻ: ACB-Visa Electron và ACB-MasterCard
Electronic hay thẻ ghi nợ quốc tế Visa Plus của ngân hàng nước ngoài HSBC.
Thẻ ANZ Access Card thực chất đây là thẻ ghi nợ thuộc hệ thống thẻ ghi nợ
Maestro của MasterCard. Thẻ này cho phép rút tiền mặt và thanh toán tiền hàng
hóa tại 810.000 máy ATM và 5,4 triệu cửa hàng trên thế giới có biểu tượng
Maestro hoặc Cirrus. Cho tới ngày 31.12.2004 ngân hàng ANZ đã phát hành
được khoảng 24.000 thẻ ghi nợ quốc tế trong đó chỉ có 21% thẻ phục vụ cho đối
tượng khách hàng là người nước ngoài.
So với 2 loại thẻ tín dụng của VCB và ACB kể trên thì thẻ ghi nợ ANZ ít
được sử dụng hơn do đặc điểm khách hàng không được cấp tín dụng. Tại thị
trường nước ngoài từ năm 2000 trở lại đây, thẻ ghi nợ này được sử dụng phổ
biến hơn do khách hàng phần đông là đối tượng sinh viên, học sinh du học tự
túc, dùng để nhận trợ giúp tài chính từ người nhà tại Việt Nam. Tuy nhiên tại thị
trường trong nước, việc sử dụng thẻ lại phát triển hơn do sự thuận tiện khi thanh
toán tại nhiều cơ sở chấp nhận thẻ, dễ dàng rút tiền tại máy ATM và phí so với
thẻ tín dụng lại rẻ.
-
Thẻ ghi nợ nội địa thời kỳ này tỏ ra phát triển rất mạnh với sự tham gia của 15
ngân hàng phát hành, với tốc độ phát triển 3 con số hàng năm (trung bình trên
200%/năm) và đạt 760.000 thẻ (gấp 7 lần số thẻ quốc tế) chỉ sau 3 năm phát
hành. Tiêu biểu như sản phẩm Connect 24 của VCB, E- Card của ACB, thẻ
F@stAccess của Techcombank hay chùm sản phẩm ATM G-Card và ATM CCard của ngân hàng Công thương.
(Nguồn: Báo cáo tổng kết hội nghị các ngân hàng thanh toán thẻ Việt Nam tháng 11
năm 2004)
Các loại thẻ này chủ yếu là thẻ tiền lương của các công ty, với tiện ích
dành cho người sử dụng chủ yếu là rút tiền mặt tại các máy ATM của chính
ngân hàng đó hoặc tại các đại lý chấp nhận thẻ lưu động. Bên cạnh đó một số
Đào Thu Trang - Lớp 4031