Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 139 trang )
7
7
Đối với mỗi quốc gia việc xác định quy mô DNNVV chỉ mang tính chất
tương đối, vì nó chịu tác động của các yếu tố như trình độ phát triển của mỗi
nước, tính chất ngành nghề, điều kiện phát triển hay mục đích phân loại
doanh nghiệp trong từng thời kỳ, nhìn chung trên thế giới một DN được xếp
vào loại DNNVV chủ yếu dựa vào hai tiêu chí:
Tiêu chí định tính:
Được xây dựng dựa trên các đặc điểm cơ bản của DNNVV như trình độ
về chuyên môn hoá còn thấp, mức độ phức tạp trong quản lý ít…Nhưng trên
thực tế các tiêu chí này thường rất khó xác định, do vậy chúng chỉ dùng để
tham khảo, kiểm chứng mà ít được sử dụng để xác định quy mô DNNVV.
Tiêu chí định lượng:
Được xây dựng dựa trên các chỉ tiêu về số lượng như: Số lượng lao
động; Tổng giá trị tài sản; Doanh thu hay lợi nhuận của DN, các tiêu chí
định lượng có vai trò quan trọng trong việc xác định quy mô DN, vào các
thời kỳ khác nhau các tiêu chí này rất khác nhau giữa các ngành nghề, mặc
dù giữa chúng vẫn có những yếu tố chung nhất định.
Các nước trên thế giới có các tiêu chí khác nhau để xác định DNNVV,
các tiêu chí thường không cố định mà thay đổi theo từng ngành nghề và
trình độ phát triển của nền kinh tế trong từng thời kỳ.
Theo tiêu chuẩn của ngân hàng thế giới hiện nay các DNNVV phân theo
quy mô như sau:
Bảng1 : Tiêu chí xác định DNNVV của ngân hàng thế giới
Loại hình
7
Số lao động
Doanh thu
Tổng tài sản
8
8
doanh nghiệp
Doanh nghiệp siêu nhỏ
Doanh nghiệp nhỏ
Doanh nghiệp vừa
( Người)
hàng năm
1- 9
10- 49
50- 300
(triệu USD)
< 0,1
< 3,0
< 15,0
( triệuUSD)
< 0,1
< 3,0
< 15,0
“Nguồn: http:// World bank. Org”
Đây là cách phân loại chung đáng tin cậy được ngân hàng thế giới đưa ra
sau khi đã thu thập số liệu về các DNNVV của hầu hết các quốc gia trên thế
giới. Tuy nhiên do có sự chênh lệch về tiềm năng và trình độ phát triển giữa
các nền kinh tế trên thế giới, nên cách phân loại này chỉ mang tính chất tham
khảo đối với các quốc gia.
Ở nước ta từ trước năm 1998 chưa có một văn bản pháp luật chính thức
nào quy định tiêu chí cụ thể của DNNVV, do đó mỗi tổ chức đưa ra một
quan niệm về DNNVV, nhằm định hướng mục tiêu phát triển và chính sách
hỗ trợ của tổ chức mình.
Tổ chức UNDIO ( Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên hợp quốc tại
Việt Nam) đưa ra tiêu thức xác định DN nhỏ là DN ít hơn 50 lao động, tổng
vốn và doanh thu dưới 1 tỷ đồng, DN vừa là các DN có số lao động từ 50
đến 200 người, có tổng vốn và doanh thu từ 1 tỷ đến dưới 5 tỷ đồng.
Thời kỳ 1998 - 2001 tại công văn số 681/CV- CP ngày 20/06/1998 của
Thủ tướng Chính Phủ, quy định tạm thời về tiêu chí xác định DNNVV như
sau: Các DN có vốn điều lệ dưới 5 tỷ và có số lao động bình quân dưới 200
người được xếp vào loại DNNVV.
Từ năm 2001 đến nay để khuyến khích và tạo thuận lợi cho các DNNVV
phát triển, ngày 23/11/2001 Chính Phủ đã có Nghị định số 90/NĐ-CP của
Chính phủ về trợ giúp phát triển DNNVV: Theo đó “DNNVV là các cơ sở
8
9
9
sản xuất, kinh doanh độc lập đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện
hành, có số vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc có số lao động bình
quân hàng năm không quá 300 người”.
Theo Nghị định này tất cả các DN; Hợp tác xã; Cơ sở sản xuất thuộc mọi
thành phần kinh tế có đăng ký kinh doanh, thoả mãn một trong hai tiêu chí
về vốn hoặc lao động đều được coi là DNNVV.
Các tiêu chí này tương đối phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội của Việt
Nam , nhưng vẫn chưa được cụ thể và sát thực tế, như chỉ tiêu về vốn đăng
ký ban đầu khi đăng ký kinh doanh thường khác xa so với vốn thực tế đưa
vào kinh doanh vì hàng năm DN thường bổ xung thêm vốn nhưng rất ít DN
đăng ký bổ xưng tại cơ quan đăng ký kinh doanh. Còn chỉ tiêu lao động bình
quân cũng chưa có sự thống nhất, là số lao động thường xuyên, lao động
thời vụ hay lao động có đóng bảo hiểm xã hội.
1.1.1.2. Phân loại DNNVV
Từ các quan niệm và tiêu chí xác định DNNVV, ta thấy nó không đơn
thuần phản ánh quy mô của DN mà nó còn bao hàm cả nội dung kinh tế, tổ
chức sản xuất và quản lý, khoa học và công nghệ. Tuỳ theo trình độ và xu
thế phát triển mà các nước có nhiều tiêu thức khác nhau để phân loại
DNNVV, dưới đây là một số cách phân loại phổ biến hiện nay.
Phân theo hình thức sở hữu
Doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật Doanh nghiệp
Doanh nghiệp thành lập và hoạt động theo luật Doanh nghiệp nhà nước
Các hợp tác xã hoạt động theo luật Hợp tác xã
9
10
10
Các hộ kinh doanh cá thể đăng ký kinh doanh theo nghị định số 02NĐCP ngày 03/02/2000 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh, Nghị định
109/NĐ -CP ngày 02/04/2004, và nghị định 88 ngày 29/08/2006 của
Chính Phủ sửa đổi nghị định 02/NĐ - CP về đăng ký kinh doanh.
Phân theo ngành nghề
Doanh nghiệp hoạt động ngành công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp
Doanh nghiệp hoạt động ngành thương mại và dịch vụ
Doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nông, lâm, ngư, diêm nghiệp
Doanh nghiệp hoạt động ngành vận tải, xây dựng
Doanh nghiệp hoạt động khác
Phân theo quy mô
Doanh nghiệp vừa
Doanh nghiệp nhỏ
Doanh nghiệp siêu nhỏ
1.1.1.3. Đặc điểm của DNNVV
Các DNNVV là một thực thể kinh tế, với những đặc điểm riêng biệt đó là
quy mô hoạt động nhỏ, sử dụng nhiều lao động, vốn tự có thấp, khả năng
tiếp cận các nguồn vốn thương mại khó khăn... nhưng cũng chính từ những
đặc điểm này đã mang lại cho DNNVV những lợi thế và khó khăn sau:
Lợi thế:
* Quy mô nhỏ so với các DN lớn, giúp cho các DNNVV phát triển năng
động, linh hoạt, thích ứng kịp thời với những biến động của thị trường, có
khả năng tiếp cận và đáp ứng những nhu cầu nhỏ lẻ mang tính khu vực, đa
dạng hoá về mặt hàng phù hợp nhu cầu của thị trường.
10
11
11
* Bộ máy quản lý đơn giản gọn nhẹ, có tính tự chủ cao trong sản xuất
kinh doanh.
* Vốn đầu tư ít, thời gian thu hồi vốn nhanh, vì vậy đẩy nhanh tốc độ
vòng quay vốn, giảm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động, giúp DNNVV
nhanh chóng đổi mới thiết bị, công nghệ phù hợp.
Khó khăn
Bên cạnh các lợi thế các DNNVV, xuất phát từ chính những đặc điểm
của loại hình DN này đã làm cho các DNNVV còn gặp nhiều khó khăn:
* Vốn chủ sở hữu thấp, lợi nhuận giữ lại tái đầu tư ít, hạn chế khả năng
mở rộng sản xuất kinh doanh.
* Khả năng tiếp cận các nguồn vốn thương mại gặp khó khăn:
Các DNNVV khó tiếp cận nguồn vốn tín dụng NHTM do tài sản thế
chấp ít hoặc chưa đủ điều kiện thế chấp, không có người bảo lãnh, chưa đủ
uy tín để ngân hàng cho vay tín chấp.
Huy động vốn qua thị trường chứng khoán cũng rất khó thực hiện, do
tâm lý các nhà đầu tư còn ngần ngaị khi bỏ vốn đầu tư.
Vì vậy các DNNVV thường huy động vốn thông qua các hình thức như;
vay vốn từ bạn bè, người thân, hoặc từ chính những người lao động trong
DN để tổ chức sản xuất kinh doanh.
* Nguồn nhân lực trong các DNNVV có trình độ, tay nghề thấp, do điều
kiện làm việc cũng như các ưu đãi khác còn hạn chế, nên khó thu hút lao
động có trình độ, tay nghề cao dẫn đến năng suất lao động còn thấp, chất
lượng sản phẩm không cao, hạn chế khả năng cạnh tranh.
* Trình độ quản trị doanh nghiệp của các chủ DNNVV còn thấp, nhiều
chủ DN tư nhân thiếu năng lực quản lý, trình độ chuyên môn rất hạn chế,
11
12
12
chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, không đủ khả năng để xây dựng dự án,
phương án sản xuất kinh doanh, hạch toán kinh tế mang nặng kiểu gia đình,
thiếu minh bạch, chưa tuân thủ theo đúng quy định của pháp luật.
1.1.1.4: Vai trò của DNNVV trong nền kinh tế thị trường
DNNVV có vai trò quan trọng trong hoạt động tín dụng của NHTM góp
phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
* Vai trò của DNNVV đối với nền kinh tế:
* Đóng góp vào kết quả hoạt động của nền kinh tế, tạo ra sự cạnh tranh
lành mạnh thúc đẩy nền kinh tế phát triển ổn định và hiệu quả .
DNNVV của Việt Nam cung cấp cho thị trường một khối lượng lớn hàng
hoá, dịch vụ đáp ứng nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng trong nước cũng
như xuất khẩu.
DNNVV rất phù hợp trong việc hỗ trợ các DN lớn, như làm đầu mối tiêu
thụ sản phẩm, cung cấp nguyên nhiên liệu đầu vào…
DNNVV nhờ hoạt động với quy mô nhỏ lên rất linh hoạt trong việc
trong việc chuyển hướng kinh doanh từ những ngành nghề kém hiệu quả
sang ngành nghề hiệu quả hơn.
* Thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tăng cường phát triển các mối
quan hệ kinh tế, đặc biết là mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài thông
qua các DN xuất, nhập khẩu hàng hoá.
Phát triển DNNVV sẽ dẫn đến sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo tất cả
các khía cạnh vùng kinh tế, ngành kinh tế, thành phần kinh tế.
Các doanh nghiệp hình thành và phát triển trong những ngành nghề khác
nhau, nhưng có mối quan hệ mật thiết và liên kết với nhau, chia sẻ rủi ro
làm tăng hiệu quả nền kinh tế.
12
13
13
* Thu hút vốn và khai thác các nguồn lực sẵn có trong dân cư, tạo cơ sở
để hình thành nên các DN lớn.
Vốn là yếu tố cơ bản của quá trình xản xuất, kinh doanh có vai trò quyết
định đến việc đầu tư trang thiết bị, cải tiến công nghệ, đào tạo nâng cao tay
nghề cho công nhân cũng như nâng cao trình độ quản lý của chủ DN. Các
DNNVV đã huy động được vốn trong dân cư bằng cách tiếp xúc trực tiếp
người dân để huy động vốn, hoặc chính bản thân những người có vốn đã
đứng ra thành lập DNNVV để thực hiện sản xuất kinh doanh. Khi các
DNNVV tích luỹ đủ vốn và kinh nghiệm họ sẽ mở rộng và phát triển thành
các DN lớn.
* Vai trò của DNNVV đối với xã hội
* Tạo nhiều việc làm cho người lao động, góp phần giảm tỷ lệ thất
nghiệp trong xã hội.
Đặc điểm chung của DNNVV là hoạt động chủ yếu trong các ngành sử
dụng nhiều lao động, do đó đã tạo việc làm cho người lao động, giải quyết
tốt các vấn đề xã hội, mang lại lợi ích cho cộng đồng dân cư.
* Nâng cao thu nhập của dân cư, góp phần xoá đói giảm nghèo, thực hiện
công bằng xã hội.
Phát triển DNNVV tại thành thị cũng như các vùng nông thôn sẽ phát
huy được lợi thế của từng vùng và đều góp phần tăng thu nhập của các tầng
lớp dân cư, rút ngắn sự khác biệt về thu nhập giữa các vùng.
* Tạo môi trường thuận lợi để phát triển các tài năng kinh doanh.
DNNVV làm xuất hiện nhiều tài năng trong kinh doanh, một bộ phận cán
bộ trong các DNNVV đã qua thử thách và được đào tạo, chọn lọc trở thành
các doanh nhân tiêu biểu biết cách làm giầu cho bản thân và xã hội.
*Vai trò của DNNVV đối với hoạt động tín dụng của NHTM
13
14
14
DNNVV phát triển sẽ tạo ra thị trường rộng lớn, đầy tiềm năng cho hoạt
động của các NHTM.
Trong nền kinh tế thị trường cạch tranh giữa các NHTM để mở rộng thị
phần tín dụng, bằng cách giữ chân khách hàng truyền thống và thu hút
khách hàng mới diễn ra quyết liệt. DNNVV đã và đang là đối tượng khách
hàng mục tiêu, mang lại nhiều tiềm năng về doanh thu cho các NHTM từ
hoạt động cấp tín dụng và hoạt động cung cấp các dịch vụ ngân hàng khác
cho các DNNVV như bảo lãnh, tư vấn, thanh toán, chuyển tiền…
Hiện nay các DNNVV đang phát triển nhanh về số lượng và chất lượng ,
để thuận tiện cho hoạt động sản xuất kinh doanh, nhất là trong khâu thanh
toán, các DNNVV đều mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại hệ thống
NHTM, do có sự chênh lệch về thời gian gửi và thời gian thanh toán nên
trên tài khoản tiền gửi của khách hàng thường có số dư và được NHTM trả
lãi xuất không kỳ hạn, ngân hàng được phép sử dụng nguồn vốn này, vì vậy
đã tạo nên một nguồn vốn rẻ cho NHTM hoạt động, làm gia tăng lợi nhuận.
1.1.4.5. Vốn của Doanh nghiệp nhỏ và vừa
Vốn là một trong những nhân tố quan trọng và quyết định hoạt động của
DN nói chung và DNNVV nói riêng. Các DNNVV nếu chỉ dựa vào nguồn
vốn chủ sở hữu thì không thể đáp ứng được nhu cầu mở rộng sản xuất kinh
doanh, vì vậy các DNNVV phải tìm tài trợ từ các nguồn khác nhau gồm:
* Vốn chủ sở hữu:
Vốn chủ sở hữu là do đóng góp của Cổ đông đối với Công ty cổ phần;
Thành viên đối với Công ty trách nhiệm hữu hạn và Công ty hợp danh; Xã
viên đối với Hợp tác xã; Chủ DN đối với DN tư nhân; Cá nhân đối với Hộ
kinh doanh. Tăng nguồn vốn này là biện pháp đơn giản, không tạo ra chi phí
14
15
15
đối với chủ sở hữu, tuy nhiên nguồn vốn này bị hạn chế bởi khả năng tài
chính của các chủ sở hữu có hạn.
*Vốn vay ngân hàng:
Đây là nguồn vốn bổ xung chủ yếu và đóng vai trò quan trọng cho hoạt
động sản xuất kinh doanh của DNNVV, vay ngân hàng là biện pháp tài trợ
truyền thống. Tuy nhiên hiện nay các DNNVV đang gặp phải khó khăn
trong việc vay vốn NHTM, xuất phát từ đặc thù hoạt động của DNNVV,
chưa đủ tín nhiệm và điều kiện vay vốn .
*Thuê tài chính:
Thuê tài chính là phương thức thường được các DNNVV áp dụng chủ
yếu để tài trợ cho tài sản cố định như máy móc thiết bị, phương tiện vận tải ,
dây truyền công nghệ.
* Vốn huy động khác:
Là nguồn vốn được huy động từ thị trường tài chính như phát hành trái
phiếu công ty hoặc huy động từ anh em, bạn bè, những người thân trong gia
đình và cộng đồng dân cư.
1.1.2. Tín dụng ngân hàng đối với DNNVV.
1.1.2.1. Khái niệm và các hình thức tín dụng DNNVV.
* Khái niệm về tín dụng ngân hàng:
- Khái niệm về tín dụng:
Trong thực tế thuật ngữ tín dụng được hiểu theo nhiều cách khác nhau,
hiểu theo cách đơn giản thì tín dụng là sự vay mượn, hiểu theo cách cao hơn
thì tín dụng là sự chuyển nhượng tạm thời một lượng giá trị từ người sở hữu
15
16
16
sang người sử dụng, để sau một thời gian thu về một lượng giá trị lớn hơn
lượng giá trị ban đầu. Như vậy khó có thể đưa ra một khái niệm cụ thể về tín
dụng. Song tuỳ thuộc vào góc độ nghiên cứu mà ta có thể xác định nội dung
của thuật ngữ này.
Tín dụng không chỉ là hình thức vận động của vốn tiền tệ mà còn là một
loại quan hệ xã hội mà trước hết là lòng tin, sau đó là sự bảo trợ bằng pháp
luật của Nhà nước. Nhưng không phải tín dụng phản ánh mọi quan hệ xã hội
mà nó chỉ phản ánh các quan hệ xã hội biểu hiện các quan hệ vay mượn. Tín
dụng biểu hiện các quan hệ kinh tế gắn liền với quá trình phân phối lọai vốn
tiền tệ theo nguyên tắc hoàn trả và có lãi.
- Khái niệm về tín dụng ngân hàng
Tín dụng ngân hàng là quan hệ vay muợn giữa ngân hàng và các tổ chức,
doanh nghiệp và cá nhân theo nguyên tắc sử dụng vốn đúng mục đích, hoàn
trả đúng hạn cả gốc và lãi.
Các chủ thể trong nền kinh tế thị trường luôn ở một trong hai trạng thái,
hoặc là tạm thời thừa vốn, hoặc là tạm thời thiếu vốn, vì vậy để nâng cao
hiệu quả sử dụng vốn trong toàn xã hội, tín dụng ngân hàng là hình thức phổ
biến và có vai trò là kênh dẫn vốn hiệu quả từ nơi thừa vốn đến nơi thiếu
vốn của nền kinh tế.
* Các hình thức tín dụng ngân hàng ngân hàng
Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động tín dụng ngân hàng rất đa dạng
và phong phú, được thể hiện dưới nhiều hình thức khác nhau, tuỳ theo mục
đích nghiên cứu và quản lý, người ta có thể căn cứ vào các tiêu thức khác
nhau để phân loại.
Căn cứ vào thời hạn tín dụng, tín dụng được chia thành 3 loại
16
17
17
Tín dụng ngắn hạn: Là loại tín dụng có thời hạn cho vay đến 12 tháng. Tín
dụng ngắn hạn để cho vay bổ sung vốn lưu động cho các DN, cũng như nhu
cầu sản xuất, chi tiêu ngắn hạn của các tổ chức, hộ gia đình và cá nhân.
Tín dụng trung hạn: Là loại tín dụng có thời hạn cho vay trên 12 tháng
đến 60 tháng. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm
tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị công nghệ, mở rộng sản xuất
kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu vốn
nhanh. Bên cạnh đầu tư cho tài sản cố định, tín dụng trung hạn còn là nguồn
hình thành vốn lưu động thường xuyên của các doanh nghiệp, đặc biệt là
những doanh nghiệp mới thành lập.
Tín dụng dài hạn: Là loại tín dụng có thời hạn cho vay trên 60 tháng. Tín
dụng dài hạn được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng
nhà xưởng các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí
nghiệp mới.
Nghiệp vụ truyền thống của các NHTM là cho vay ngắn hạn, nhưng
ngày nay trong nền kinh tế thị trường, nhiều thành phần kinh tế cùng tồn tại
và phát triển, nhu cầu vốn trung dài hạn tăng lên, dẫn tới nghiệp vụ tín dụng
trung dài hạn phát triển theo. Nâng cao tỷ trọng cho vay trung, dài hạn trong
tổng số dư nợ của ngân hàng đã góp phần quan trọng vào việc đổi mới, hiện
đại hoá tài sản cố định tạo ra năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
Căn cứ và hình thức cấp tín dụng, tín dụng được chia là 4 loại.
Cho vay: Là hình thức cấp tín dụng theo đó các tổ chức tín dụng giao
cho khách hàng sử dụng một khoản tiền dùng vào mục đích riêng của khách
hàng trong một thời hạn nhất định theo thoả thuận với nguyên tắc hoàn trả
cả gốc cả lãi. Đây là hình thức truyền thống chiếm tỷ trọng lớn nhất trong
các hình thức cấp tín dụng.
17