Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.79 MB, 139 trang )
29
29
Có nhiều nhân tố ảnh hưởng đến việc mở rộng hoạt động tín dụng ngân
hàng, ta có thể chia thành hai nhóm nhân tố chủ yêu đó là: Nhân tố khách
quan và nhân tố chủ quan:
1.3.1
Nhân tố khách quan:
Môi trường chính trị xã hội: Sự ổn định về chính trị - xã hội, giúp các
DN yên tâm đưa ra quyết định đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất KD, từ đó
sẽ tăng nhu cầu về vốn vay, ngược lại môi trường chính trị - xã hội, bất ổn
làm cho các DN phải thu hẹp quy mô sản xuất kinh doanh, vì vậy nhu cầu
vốn sẽ giảm theo.
Môi trường phát triển kinh tế : Môi trường kinh tế là nhân tố ảnh hưởng
đến hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNVV. Khi môi
trường kinh tế ổn định mọi mặt thì ngân hàng và DNNVV đều hoạt động tốt,
tín dụng được mở rộng, ngược lại nền kinh tế suy thoái và mất đi sự ổn định
thì DNNVV và ngân hàng sẽ gặp khó khăn.
Trong môi trường kinh tế đầy biến động như hiện nay đó là; lạm phát,
giá cả gia tăng, tỷ giá và lãi xuất biến động, đã gây ra không ít khó khăn,
thách thức cho các DNNVV và các NHTM. Mặt khác đa số các DNNVV
hiện nay do nguồn vốn tích luỹ còn hạn hẹp. Trong khi vẫn còn lượng tiền
mặt khá lớn trong dân cư, bởi do tâm lý, thói quen sử dụng tiền mặt và
không quen giao dịch qua ngân hàng của họ, do đó công tác huy động vốn
của ngân hàng gặp khó khăn.
Bên cạnh đó nước ta đang trong quá trình phát triển và hội nhập vì vậy
cơ chế chính sách luôn thay đổi, điều này gây bất lợi cho cả DN và ngân
hàng vì đã mất thế chủ động và phải luôn thay đổi chính sách cho phù hợp.
29
30
30
Trước những khó khăn đó, đòi hỏi ngân hàng phải tìm ra những biện
pháp thích hợp để thực hiện mở rộng tín dụng trên cả hai mặt là huy động
vốn và cho vay.
Môi trường pháp lý:
Hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật có liên quan đến hoạt động
ngân hàng nói riêng, có ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động NHTM và việc
mở rộng tín dụng. Tại các nước đang phát triển như Việt Nam, môi trường
pháp lý đang trong quá trình hoàn thiện, còn nhiều kẽ hở, bất cập khi thực
hiện, tạo điều kiện để một bộ phận DN lợi dụng làm ăn bất chính, chụp dật,
lừa đảo, các NHTM có tâm lý dè dặt hoặc quá thận trọng trong khi quyết
định cho vay những DNNVV.
Bên cạnh đó các văn bản pháp lý lại luôn thay đổi, vì vậy lợi ích của
các NHTM và DNNVV không được đảm bảo chắc chắn, điều này có tác
động không tốt đến mở rộng tín dụng.
Chính sách vĩ mô về tín dụng:
Chính sách vĩ mô về tín dụng của ngân hàng sẽ tạo điều kiện huy động
vốn, chỉ ra môi trường tín dụng, hình thức tín dụng cũng như những trọng
điểm phải được ưu tiên trong hoạt động tín dụng. Chính sách này còn chỉ ra
lãi suất, những nguyên tắc, những biện pháp xử lý rủi ro tín dụng cùng với
chính sách đào tạo đội ngũ cán bộ, nâng cao trình độ chuyên môn ngân
hàng. Như vậy việc mở rộng hoạt động tín dụng ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng
không nhỏ bởi chính sách vĩ mô về tín dụng của ngân hàng.
Môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng, các tổ chức tín dụng.
Trong nền kinh tế thị trường, cạnh tranh giữa các ngân hàng thương mại
hay giữa các DNNVV với nhau là một nhân tố khách quan. Chúng ta cần có
30
31
31
một sự cạnh tranh lành mạnh và công bằng, để tạo một sân chơi bình đẳng
giữa các DNNVV, cũng như giữa các NHTM, thúc đẩy hoạt động kinh
doanh của DNNVV và NHTM hiệu quả hơn, từ đó mở rộng tín dụng. Trái
lại nếu sự cạnh tranh thiếu lành mạnh, sẽ gây ra tổn thất không chỉ cho các
DNNVV mà cho cả các NHTM tín dụng sẽ không được mở rộng.
Nhân tố thuuộc về các DNNVV :
Hiện nay hầu hết các DNNVV còn có khó khăn về tài chính, khả năng
tiếp cận với vốn vay tín dụng còn hạn chế, do tài sản đảm bảo ít, hoặc chưa
đủ điều kiện; kinh nghiệm quản lý còn thiếu do mới thành lập, trình độ
quản lý tài chính còn non kém, mang nặng tính gia đình, báo cáo tài chính
thiếu tính minh bạch, không chính xác, khó khăn cho ngân hàng trong quá
trình thẩm định cho vay.
Bên cạnh đó trình độ hiểu biết về kinh tế - xã hội và pháp luật của chủ
DNNVV có ý nghĩa tích cực đối với việc mở rộng hoạt động tín dụng của
ngân hàng. Bởi vì trình độ hiểu biết sẽ tác động đến sự phát triển kinh tế - xã
hội, ảnh hưởng đến cơ chế chính sách của ngân hàng đối với tín dụng
DNNVV, khả năng tiếp cận với các sản phẩm, dịch vụ ngân hàng và việc
chấp hành các nguyên tắc tín dụng…
Hiện nay tình trạng chủ DNNVV mới thành lập có trình độ chuyên
môn thấp, không tương xứng với năng lực quản lý cũng như quy mô hoạt
động, tình trạng thiếu hiểu biết về kinh tế - xã hội và pháp luật còn diễn ra
phổ biến, đặc biệt là các DNNVV vùng nông thôn, gây ảnh hưởng không
nhỏ đến mở rộng hoạt động tín dụng của NHTM.
1.3.2. Nhân tố chủ quan
31
32
32
Bên cạnh những nhân tố khách quan thì các nhân tố chủ quan thuộc
về các NHTM có ảnh hưởng không nhỏ đến việc mở rộng tín dụng đối với
DNNVV bao gồm các nhân tố sau:
Hệ thống tổ chức và cơ cấu vận hành của bộ máy ngân hàng:
Hệ thống tổ chức và cơ cấu vận hành của bộ máy ngân hàng ảnh hưởng
trực tiếp đến việc mở rộng hoạt động tín dụng của ngân hàng. Hệ thống các
Chi nhánh, phòng giao dịch được phân bổ một cách hợp lý theo mật độ dân
cư là điều kiện tiên quyết tạo điều kiện cho khách hàng có thể tiếp cận được
các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Khách hàng sẽ rất khó tiếp cận nếu ngân
hàng ở quá xa khu vực sản xuất, kinh doanh của khách hàng. Tuy nhiên để
có thể mở một Chi nhánh hay Phòng giao dịch, ngân hàng phải bỏ ra rất
nhiều chi phí. Do vậy ngân hàng phải thiết lập sự cân bằng giữa chi phí và
lợi ích.
Chiến lược hoạt động và các chính sách tín dụng của ngân hàng:
Căn cứ vào tình hình thực tế và từng giai đoạn cụ thể các NHTM để xây
dựng chiến lược hoạt động, được cụ thể hoá bằng những chính sách như
chính sách tín dụng, chính sách khách hàng… Chính sách tín dụng phản ánh
cương lĩnh tài trợ của ngân hàng và nó có ảnh hưởng trực tiếp đến việc mở
rộng tín dụng DNNVV. Một chiến lược hoạt động đúng đắn, với tầm nhìn
dài hạn và có những bước đi vững chắc, một chính sách tín dụng phù hợp sẽ
là kim chỉ nam cho hoạt động cho vay đúng hướng, thúc đẩy hoạt động tín
dụng phát triển ổn định, bền vững, ngược lại sẽ kìm hãm tăng trưởng, mở
rộng tín dụng.
Quy mô vốn của ngân hàng
32
33
33
Quy mô vốn tự có của NHTM thể hiện tiềm lực, sức mạnh của ngân
hàng, vì vậy vốn tự có càng cao chứng tỏ ngân hàng đó có sức mạnh để phát
triển hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực mà ít bị hạn chế. Hiện nay ở
nước ta cũng như nhiều nước trên thế giới các NHTM chỉ được phép cho
vay tối đa đối với một khách hàng không được vượt quá một tỷ lệ nào đó
của vốn tự có, tỷ lệ này là tuỳ theo quy định mỗi nước. Ở nước ta hiện nay
theo quy định của NHNN thì các NHTM cho vay đối với một khách hàng
không được vượt quá 15% vốn tự có. Do vậy để mở rộng cho vay các
NHTM cần phải gia tăng vốn tự có.
Bên cạnh việc tăng thêm vốn tự có, để mở rộng tín dụng các NHTM
phải tích cực mở rộng huy động vốn trong và ngoài nước, dưới nhiều hình
thức để đáp ứng nhu cầu vốn tín dụng của các DNNVV.
Năng lực, phẩm chất của đội ngũ nhân viên:
Đây là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành hay bại của việc
mở rộng hay thu hẹp hoạt động của một ngân hàng nói chung và của hoạt
động tín dụng đối với DNNVV nói riêng. Với đội ngũ nhân viên được đào
tạo bài bản, nắm vững và vận dụng linh hoạt quy trình nghiệp vụ thì hoạt
động tín dụng sẽ có nhiều cơ hội để phát triển, các rủi ro sẽ được kiềm chế.
Với tinh thần hợp tác và thái độ phục vụ vì khách hàng, các nhân viên sẽ
góp phần tạo dựng một hình ảnh tốt đẹp về ngân hàng trong lòng khách
hàng, xua tan trong họ những suy nghĩ thiếu thiện cảm về ngân hàng. Ngược
lại, một đội ngũ nhân viên với trình độ nghiệp vụ yếu, tinh thần làm việc bê
trễ và đánh mất đạo đức nghề nghiệp thì hoạt động tín dụng ở đó sẽ có nguy
cơ bị đổ bể, khả năng mở rộng tín dụng với chất lượng tốt là rất khó khăn.
33
34
34
Công nghệ ngân hàng:
Mặc dù là ngân hàng chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp
nông thôn, nhưng cũng không thể phủ nhận vai trò của công nghệ ngân hàng
đối với triển vọng mở rộng hoạt động tín dụng. Với hệ thống thiết bị và
công nghệ hiện đại, các thao tác và quy trình sẽ được rút ngắn tạo điều kiện
thoải mái cho khách hàng, từ đó giảm thiểu chi phí hoạt động cho ngân
hàng. Công nghệ còn giúp cho việc cung cấp thông tin, điều chuyển vốn dư
thừa hoặc thiếu hụt giữa các chi nhánh trong hệ thống trở nên thuận lợi hơn,
góp phần quyết định vào việc mở rộng hoạt động tín dụng.
Công nghệ ngân hàng còn được hiểu rộng hơn ở khía cạnh sự linh hoạt
và đa dạng của các sản phẩm tín dụng. Các thông số của sản phẩm về kỳ
hạn, phương thức nhận gửi, phương thức thanh toán…nếu được thiết kế phù
hợp với nhu cầu của khách hàng sẽ góp phần quyết định và tác động đến
nhu cầu sử dụng dịch vụ của khách hàng. Từ đó tạo điều kiện mở rộng hoạt
động tín dụng của ngân hàng. Ngược lại, nếu chủ quan áp đặt những sản
phẩm của mình cho khách hàng thì ngân hàng sẽ có nguy cơ đánh mất khách
hàng, thậm chí dẫn đễn rủi ro tín dụng.
Tóm lại: Mở rộng tín dụng đối với DNNVV chịu tác động bởi rất nhiều
nhân tố như: Môi trường pháp lý, kinh tế xã hội, chính sách tín dụng, quy
mô vốn, năng lực, phẩm chất cán bộ nhân viên … Để mở rộng tín dụng đối
với DNNVV thì ngân hàng phải nắm vững các nhân tố ảnh hưởng đến nó để
từ đó tìm ra các biện pháp mở rộng phù hợp và hiệu quả.
34
35
35
Kết luận chương 1:
Chủ trương, đường lối phát triển kinh tế nhất quán của Đảng và Nhà
nước ta là; Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ
chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. DNNVV là bộ phận cấu thành
của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và có những đóng
góp quan trọng để thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế quốc gia.
Thực hiện mục tiêu đến năm 2010 cả nước có 500.000 DNNVV hoạt
động trên các lĩnh vực. Tín dụng ngân hàng luôn là kênh hỗ trợ vốn quan
trọng giúp các DNNVV mở rộng và phát triển, tương xứng với tiềm năng
và đáp ứng mục tiêu, định hướng phát triển kinh tế - xã hội.
Trong chương 1 luận văn đã hệ thống hoá và làm rõ hơn một số lý luận
cơ bản về DNNVV; Tín dụng và mở rộng tín dụng đối với DNNVV của
NHTM. Qua nghiên cứu lý luận và khảo sát thực tế, để tìm ra những nhân tố
ảnh hưởng đến mở rộng tín dụng đối với DNNVV, đây là những kinh
nghiệm tốt cho các NHTM tham khảo.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG MỞ RỘNG TÍN DỤNG ĐỐI VỚI DNNVV
TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NO&PTNT
HUYỆN TRỰC NINH - NAM ĐỊNH
35
36
36
2.1: Khái quát về Chi nhánh NH No&PTNT huyện Trực Ninh -Nam
định.
2.1.1: Cơ cấu tổ chức và mạng lưới hoạt động của Chi nhánh.
Trực Ninh là huyện nằm ở phía nam của tỉnh Nam Định, là vùng đất màu
mỡ do hàng năm được bồi đắp phù sa của hai con sông lớn là Sông Hồng và
Sông Ninh Cơ. Nơi đây có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên rất thuận lợi
cho sản xuất nông nghiệp và phát triển ngành nghề như vận tải, cơ khí đóng
tàu, sản xuất vật liệu, ươm tơ, dệt…
Trong những năm qua cùng với các cấp, ngành, các DN, tổ chức và cộng
đồng dân cư tại địa phương, đã và đang thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế
trong nông nghiệp nông thôn. Nhiều cụm công nghiệp được triển khai đi vào
hoạt động theo đúng quy hoạch, các làng nghề truyền thống được củng cố
và phát triển, nhiều ngành nghề mới được hình thành, đang hoạt động hiệu
quả như; nghề Cơ khí; Luyện thép; Chế biến gỗ; Sản xuất hàng thủ công mỹ
nghệ xuất khẩu như thêu ren, mây tre đan…
Với diện tích đất tự nhiên là 14.318 ha, dân số 189.000 người, trong đó
có 81.000 lao động, nằm trong 51.189 hộ gia đình và 1.015 DN, chủ yếu là
DNNVV chiếm 99,5% tổng số DN, hoạt động phong phú và đa dạng trên
mọi lĩnh vực của nền kinh tế.
Từ những đặc điểm và lợi thế như trên, Trực Ninh là địa phương có
nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế - xã hội và là thị trường đầy tiềm
năng đối với hoạt động của NHTM trong việc cung cấp tín dụng và các dịch
vụ ngân hàng cho nền kinh tế.
Chi nhánh ngân hàng No&PTNT huyện Trực Ninh, được thành lập theo
quyết định số 100/QĐ- NHNo&PTNT Việt Nam ngày 20/03/1997. Là đơn
vị trực thuộc Chi nhánh ngân hàng No&PTNT tỉnh Nam Định, có nhiệm vụ
36
37
37
chính là tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ, tín dụng, mà hoạt động chủ
yếu là nhận tiền gửi của khách hàng và sử dụng số tiền đó để cho vay và
cung cấp các dịch vụ ngân hàng cho các tổ chức kinh tế và dân cư.
Chi nhánh có trụ sở chính đặt tại thị trấn Cổ Lễ - huyện Trực Ninh - tỉnh
Nam Định. Với mô hình tổ chức và mạng lưới hoạt động gồm; Hội sở chính
đặt tại trung tâm huyện, ba Phòng giao dịch đặt tại ba địa điểm cách trung
tâm từ 15 đên 20 km đó là: Phòng giao dịch Trực Cát; Phòng giao dịch Chợ
Đền; Phòng giao dịch Ninh Cường và nhiều điểm giao dịch khác được đặt
lưu động tại các xã, thị trấn trong toàn huyện.
Trải qua 10 năm hoạt động và trưởng thành, Chi nhánh ngân hàng
No&PTNT huyện Trực Ninh – Nam Định, đã tự khảng định vị trí là ngành
kinh tế mũi nhọn, góp phần quan trọng để phát triển kinh tế tại địa phương.
Hiện tại Chi nhánh có 38 cán bộ viên chức, trong đó số cán bộ viên
chức có trình độ đại học là 30 người chiếm 80 %. Với phương châm hoạt
động là: “Mang phồn thịnh đến với khách hàng”, Chi nhánh ngân hàng
No&PTNT huyện Trực Ninh - Nam Định, không ngừng mở rộng màng lưới
đổi mới trang thiết bị, nâng cao chất lượng phục vụ, triển khai các chương
trình tín dụng trọng điểm; như cho vay hộ nông dân theo QĐ 67/QĐ –TTg
của Thủ tướng Chính phủ, cho vay phát triển kinh tế làng nghề, ngành nghề
nông thôn, cho vay chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, cho vay
đối với người đi lao động có thời hạn ở nước ngoài…
Từ việc triển khai thực hiện các chương trình hoạt động của mình.Trong
những năm qua Chi nhánh đã mang lại nhiều lợi ích vượt lên trên cả sự
mong đợi của khách hàng, vì vậy đã tạo ra sự tín nhiệm của đông đảo khách
hàng và công chúng. Đến ngày 31/12/2007 Chi nhánh có tổng nguồn vốn
37