1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Báo cáo khoa học >

b) Về chất lượng tín dụng, công tác phân loại nợ, xử lý nợ:

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (327.66 KB, 52 trang )


39



+ Nợ nhóm 1, 2 là 5.510 tỷ đồng.

+ Nợ nhóm 3, 4, 5 là 408,14 tỷ đồng, chiếm tỷ lệ 6,90% tổng dư nợ.

- Tình hình thu nợ:

+ Thu nợ xấu nội bảng: Lũy kế giảm nợ xấu 143,41 tỷ đồng do chuyển

nhóm nợ (công ty cổ phần lắp máy và xây dựng Hà Nội, công ty liên doanh

công trình hữu nghị, tổng công ty công nghiệp ô tô Việt Nam) và thu nợ xấu

của Sở giao dịch trong năm 2006 là 104.066,4 triệu đồng, trong đó có các đơn

vị: công ty cổ phần Lilama Hà Nội (39.534,5 triệu đồng), công ty thương mại

XNK Hà Nội (791,6 triệu đồng), công ty cổ phần cơ khí và xây lắp số 7 (700

triệu đồng), công ty cổ phần xây lắp và sản xuất công nghiệp (2.792,3 triệu

đồng) , công ty CTGT 810 (5.645 triệu đồng),công ty CP Da giầy xuất khẩu

Hà Nội (1.050 triệu đồng), công ty cổ phần đầu tư phát triển Hà Nội (1.012

triệu đồng), công ty TNHH NN MTV Dệt 8/3 (35,482 triệu đồng), công ty

liên doanh công trình Hưu Nghị (1040 triệu đồng)...

+ Thu nợ ngoại bảng: Lũy kế thu nợ và lãi từ đầu năm là 11,01 tỷ đồng,

trong đó có 120 triệu đồng của công ty kỹ thuật điện thông, hơn 5 tỷ đồng

của Tổng công ty Thủy Lợi I, thu 284 triệu đồng gốc và 50,57 triệu đồng tiền

lãi của công ty 842,90 triệu đồng của công ty 230; 5.314 triệu đồng của công

ty 128, 150 triệu đồng của Tổng công ty Cà phê Việt Nam, hoàn thành 130%

kế hoạch thu nợ ngoại bảng được giao.

- Xây dựng phương án xử lý nợ xấu theo chỉ đạo của Ngân hàng ĐT &

PT Việt Nam trong Công văn số 7404/CV- QLTD 4 và Công văn số

8141/CV-QLTD 4 tại thời điểm 30/12/2005 và 30/06/2006 đảm bảo chất

lượng và đúng thời hạn.

2.3.2. Những khó khăn tồn tại:

Tuy trong quá trình phân tích tài chính doanh nghiệp trong hoạt động

tín dụng Sở giao dịch đã đạt được một số thành công nhất định nhưng qua

xem xét thực tế, công tác phân tích còn một số vấn đề tồn tại như sau:



40



Thứ nhất: Phương pháp đánh giá các chỉ tiêu tài chính chưa toàn diên.

Mặc dù cán bộ tín dụng đã đưa ra được những đánh giá về sự biến động

lên xuống của các chỉ tiêu và những đánh giá đó đã được so sánh đánh giá với

những doanh nghiệp trong cùng lĩnh vực. Tuy nhiên sự so sánh này vẫn còn

chưa được đầy đủ và hoàn thiện. Đây cũng là hạn chế của các Ngân hàng

Thương mại nói chung bởi viêc lựa chọn hợp lý một nhóm doanh nghiêp đang

xét để so sánh là việc làm không hề đơn giản. Hơn nữa so sánh, phân tích

từng chỉ tiêu riêng lẻ có thể cho những kết quả không giống nhau, không phản

ánh được mối quan hệ tác động lẫn nhau giữa các chỉ tiêu.

Thứ hai: Về năng lực và trình độ chuyên môn của cán bộ tín dụng.

Đa số CBTD của SGD Ngân hàng ĐT&PT VN là cán bộ trẻ có trình độ

nghiệp vụ, đều tốt nghiệp loại ưu từ các trường Học Viện Ngân Hàng, Kinh tế

Quốc Dân,... hăng hái, nhiệt tình nhưng thiếu kinh nghiệm. CBTD còn thiếu

khả năng phân tích TCDN, hạn chế về kỹ thuật chuyên ngành đầu tư. Ngược

lại, CBTD có kinh nghiệm nhưng tuổi đời lại cao nên khó khăn trong việc đào

tạo. Thực trạng này đang dần được SGD Ngân hàng ĐT&PT VN tích cực

khắc phục.

2.3.3. Nguyên nhân tồn tại:

Những tồn tại của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp do rất

nhiều nguyên nhân gây ra. Nguyên nhân chính của những tồn tại trên là:

- Về phiá doanh nghiệp:

Thông tin tài chính là một yếu tố ảnh hưởng lớn đến chất lượng công

tác phân tích tài chính doanh nghiệp trong ngân hàng. Những thông tin về

hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp chủ yếu được thu thập qua

các BCTC do doanh nghiệp chưa nộp đủ BCTC hoặc BCTC của doanh

nghiệp không mang tính đồng bộ. Hiện tượng doanh nghiệp cố tình che giấu

hay thay đổi các thông tin trên BCTC để tạo ấn tượng tốt với ngân hàng xảy



41



ra khá phổ biến vì thế cán bộ tín dụng không có đủ dữ liệu có chất lượng để

đánh giá.

Trình độ kế toán còn hạn chế: Do khách hàng mới chuyển từ cửa hàng

kinh doanh lên công ty nên công tác kế toán doanh nghiệp chưa được tốt. Do

vậy việc thẩm định không tránh khỏi sự thiếu chính xác.

Doanh nghiệp hoạt động trong thị trường cạnh tranh gay gắt, hiệu quả

sản xuất trong nước thấp, giá thành cao, hoạt động kinh doanh khó khăn dẫn

đến làm sai lệch BCTC, số liệu đưa ra không minh bạch ảnh hưởng đến chất

lượng phân tích TCDN.

Rủi ro đạo đức là không thể tránh khỏi do khách hàng cố ý lừa đảo

ngân hàng để chiếm dụng vốn nên BCTC đưa ra không chinh xác.

- Về phía chính sách kinh tế vĩ mô:

Chính sách kinh tế vĩ mô không ổn định, thường xuyên thay đổi như

thuế, đất đai, cơ chế tài chính, tỷ giá làm cho doanh nghiệp chuyển từ lãi sang

lỗ kéo theo rủi ro tín dụng cho ngân hàng, giảm chất lượng phân tích TCDN.

Cơ chế chính sách về xử lý nợ có vấn đề,TSĐB nợ vay, tài sản gán nợ

không đầy đủ, thiếu nhất quán, không phù hợp với thực tế dẫn đến nợ tồn

đọng lớn không xử lý được.

Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành chưa đầy đủ và đồng

bộ để đảm bảo quyền tự chủ cho NHTM trong việc thực hiện hợp đồng tín

dụng, trong việc điều chỉnh thời hạn hoặc gia hạn nợ, xử lý nợ có vấn đề, đặc

biệt trong việc thanh lý, phát mại, xử lý khách hàng không trả được nợ (thủ

tục pháp lý phức tạp, qua nhiều cấp, nhiều khâu). Điều này cũng ảnh hưởng

đến chất lượng của công tác phân tích TCDN.

Việc khoanh, xoá, giãn nơ... đối với các khoản cho vay chính sách, đặc

biệt trong trường hợp thiên tai, bất khả kháng phát sinh thường xuyên chưa có

cơ chế chính sách nhất quán, vẫn giải quyết tình thế làm cho các NHTM, Tài

chính Nhà nước và doanh nghiệp không thể phân tích thực lực tài chính doanh



42



nghiệp, không xử lý và hoạch toán kịp thời phát sinh dẫn đến tài chính không

lành mạnh, gánh nặng cho ngân sách và thiệt hại cho ngân hàng.

Nhận thức rõ tồn tại và nguyên nhân nêu trên, SGD Ngân hàng ĐT&PT

VN đang tiến hành khắc phục triệt để và hạn chế một cách tối đa những

nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng tín dụng của ngân hàng.

Để vững bước trên con đường đầy gian nan thử thách, Ngân hàng ĐT

& PT Việt Nam luôn cố gắng đạt được kết quả cao trong mọi hoạt động, đặc

biệt là hoạt động tín dụng bởi trong thời gian tới đó vẫn là mục tiêu tồn tại

chính của ngân hàng. Muốn có kết quả như đã đề ra quả không phải là việc

làm dễ dàng vì vậy Ngân hàng ĐT & PT Việt Nam cần phải có định hướng

phát triển rõ ràng, tiến hành thực hiện các giải pháp, đặc biệt là các giải pháp

nhằm nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp phục vụ cho hoạt

động tín dụng của ngân hàng bởi doanh nghiệp vẫn luôn là khách hàng lớn và

chủ yếu của ngân hàng.



CHƯƠNG 3



43



MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHÂN

TÍCH TÀI CHÍNH DOANH NGHIỆP PHỤC VỤ CHO HOẠT ĐỘNG

TÍN DỤNG CỦA SỞ GIAO DỊCH NGÂN HÀNG ĐT & PT VIỆT NAM

3.1. Định hướng và mục tiêu phát triển của SGD Ngân hàng đầu tư và

phát triển Việt Nam.

Năm 2007 hoạt động kinh doanh của Ngân hàng tập trung vào 3 mục

tiêu chính là: Tăng tốc phát triển; cải cách triệt để trong quản trị điều hành lẫn

tác nghiệp, gắn với đầu tư khai thác và ứng dụng các công nghệ tiên tiến cùng

nguồn lực sẵn có, đảm bảo chất lượng, hiệu quả hoạt động kinh doanh tiến

dần theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế; cổ phần hóa thành công Ngân hàng.

Để đạt được những mục tiêu nêu trên, Hội đồng Quản trị Ngân hàng đã

phê duyệt các chi tiêu kế hoạch kinh doanh chính năm 2007 như sau: Tổng tài

sản tăng >20% , nguồn vốn tăng > 19%, tín dụng tăng < 18%, thu dịch vụ

ròng tăng tối thiểu 84%, chênh lệch thu - chi (chưa trích DPRR) tăng tối thiểu

49% - khoảng > 5.310 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế tăng tối thiểu 88% khoảng > 2.010 tỷ đồng, trích DPRR tối thiểu 3.300 tỷ đồng, đảm bảo trích đủ

quy định. Thu nợ ngoại bảng > 700 tỷ đồng. Nợ xấu (theo điều 7 QD 493)

phấn đấu < 5% tổng dư nợ.

Căn cứ trên mục tiêu chung của toàn ngành và nhiệm vụ được giao, với

trọng trách là một trong những đơn vị thành viên lớn của hệ thống Ngân hàng,

Ngân hàng xác định rõ mục tiêu phấn đấu và trọng tâm công tác trong năm

2007 như sau:

- Phấn đấu tìm mọi biện pháp hoàn thành các chỉ tiêu kế hoạch kinh

doanh năm 2007 được Ngân hàng ĐT & PT Việt Nam giao.

- Nghiêm túc thực hiện phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro đối với

các khách hàng của Ngân hàng. Rà soát, đánh giá tình hình giải ngân, thu nợ



44



đảm bảo kiểm soát việc thực hiện giới hạn và cơ cấu tín dụng theo kế hoạch

năm 2007 được Ngân hàng ĐT & PT Việt Nam giao.

- Đẩy mạnh triển khai một số nội dung hợp tác với Tổng công ty, các

khách hàng lớn của Ngân hàng trên các mặt tín dụng, huy động vốn, dịch

vụ…

- Tiếp tục phát huy ưu thế sẵn có trong việc cung cấp các dịch vụ

truyền thống; mở rộng và đa dạng hóa danh mục sản phẩm, tập trung mũi

nhọn vào các sản phẩm dịch vụ ngân hàng bán lẻ, phát triển các sản phẩm trên

cơ sở ứng dụng của dự án hiện đại hóa.

3.2.Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phân tích tài chính

Từ những tồn tại trong công tác phân tích tài chính doanh nghiệp hiện

nay ở Ngân hàng ĐT & PT Việt Nam, ta thấy việc khắc phục những tồn tại và

nâng cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp là việc làm hết sức cần

thiết. Để công tác phân tích tài chính doanh nghiệp đáp ứng các yêu cầu

nhanh, chính xác và hiệu quả cần phải có những giải pháp cụ thể.

3.2.1. Nâng cao chất lượng công tác thu thập và xử lý thông tin.

Chất lượng nguồn thông tin đầu vào là một trong những yếu tố quan

trọng ảnh hưởng lớn đến chất lượng phân tích tín dụng. Thông tin đầy đủ là

cơ sở cần thiết để cán bộ tín dụng có thể thẩm định và đưa ra nhận định chính

xác về khách hàng, từ đó có những quyết định hợp lý để cung cấp tín dụng

cho doanh nghiệp.

Hiện nay, theo “ Sổ tay tín dụng” mà Ngân hàng ĐT & PT Việt Nam

đang sử dụng đã quy định khá đầy đủ các nguồn và nội dung thông tin cần thu

thập để làm căn cứ kiểm tra tình hình tài chính của doanh nghiệp trước khi

đưa ra quyết định cho vay, nhưng vẫn phải lưu ý một số điểm sau:

Do chế độ kế toán-thống kê của nước ta chưa hoàn chỉnh nên độ chính

xác và phù hợp của các thông tin còn hạn chế, ngân hàng phải tự tìm biện

pháp khắc phục.



45



Bên cạnh đó, ngân hàng cũng phải đối chiếu với thông tin của các cơ

quan tài chính khác nhằm tránh tình trạng có một số doanh nghiệp cung cấp

thông tin không thống nhất cho các bên có liên quan với mục đích trục lợi,

gây thiệt hại cho những người sử dụng thông tin, trong đó có ngân hàng.

Thứ ba, ngân hàng cần phải thường xuyên tăng cường công tác kiểm

tra, kiểm soát nội bộ trong ngân hàng không chỉ nhằm vào phía đơn thuần là

kiểm tra, thanh lọc những cán bộ tín dụng thông đồng với khách hàng nhằm

mục đích chiếm dụng vốn và tài sản của ngân hàng nên đã thu thập thông tin

qua loa, đại khái, phân tích sơ sài hay cố tình tiếp nhận thông tin không trung

thực, đầy đủ nhanh chóng có được quyết định cho vay.

3.2.2. Nâng cao trình độ của cán bộ tín dụng.

Đội ngũ cán bộ là nhân tố quyết định hàng đầu mọi thắng lợi trong hoạt

động kinh doanh của ngân hàng. Để có đội ngũ cán bộ đáng tín cậy, Ngân

hàng ĐT & PT Việt Nam cần chú trọng từ khâu nuôi dưỡng, tuyển dụng và

đào tạo cán bộ ngân hàng.

Một là, xây dựng chính sách tuyển dụng hợp lý.

Việc tuyển dụng phải được tổ chức một cách nghiêm túc, đảm bảo chất

lượng và nên có kế hoạch tuyển dụng theo định kỳ.

Hai là, ban Giám đốc nên chú trọng công tác giáo dục chính trị tư

tưởng, đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ. Đồng thời, thường xuyên

tiến hành kiểm tra, sàng lọc đội ngũ cán bộ.

Phải giáo dục cho cán bộ tín dụng phải có đạo đức nghề nghiệp, có

trách nhiệm và lương tâm với nghề của mình, kiên định trong công việc

không dễ dàng bị mua chuộc tha hóa trong cơ chế thị trường, không chán nản,

buông xuôi công việc khi gặp khó khăn...

Khi cán bộ tín dụng vi phạm kỷ luật cần giáo dục, cảnh cáo hoặc cho

thôi việc để làm gương cho người khác.



46



Ba là, tổ chức đào tạo cho cán bộ để nâng cao chuyên môn của họ.

Công tác đào tạo cán bộ ngân hàng là một yêu cầu cấp thiết. Đặc biệt để nâng

cao chất lượng phân tích tài chính doanh nghiệp cần bồi dưỡng cho cán bộ tín

dụng kiến thức về kế toán doanh nghiệp, phân tích hoạt động kinh doanh,

nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng... Mỗi cán bộ phải thực sự vững về nghiệp

vụ kế toán mới kiểm tra được mức độ chính xác của các số liệu trên bảng

CĐKT. Ngân hàng nên tổ chức chương trình đào tạo, hướng dẫn nghiệp vụ cụ

thể cho từng chi nhánh, phòng giao dịch của mình sao cho việc phân tích đánh

giá tài chính của khách hàng mang tính thống nhất trên từng hệ thống. Thêm

vào đó ngân hàng cần tìm hiểu năng lực sở trường của từng cán bộ để bồi

dưỡng, đề bạt, bố trí vào quản lý, sử dụng cán bộ phù hợp nhằm phát huy tốt

nhất khả năng của mỗi người, mang lại được hiệu quả cao trong công việc.

Bốn là, cần có chính sách lương bổng và khen thưởng hợp lý dành

riêng cho cán bộ tín dụng.

Đây là một chính sách thiết thực nhất để thúc đẩy cán bộ tín dụng tích

cực chủ động trong tìm kiếm khách hàng và thực hiện tốt nhiệm vụ được giao.

Bên cạnh đó cần thường xuyên chăm sóc sức khỏe và đời sống tinh thần của

cán bộ công nhân viên, đặc biệt là cán bộ tín dụng. Do vậy hoạt động của

đoàn thể cần thường xuyên duy trì, nhất là hoạt động của Công đoàn. Ngân

hàng có thể thực hiện y tế cộng đồng bằng việc khám sức khỏe định kỳ cho

cán bộ nhân viên. Thực hiện tổ chức nghỉ lễ, tết vui tươi lành mạnh, tổ chức

đi du lịch để cán bộ thư dãn và tăng thêm độ hiểu biết giữa các nhân viên.

3.2.3. Thực hiện đúng, đầy đủ, nghiêm ngặt quy trình phân tích thẩm

định khách hàng vay vốn.

Bất cứ một Ngân hàng thương mại nào cũng đề ra cho mình một quy

trình tín dụng rất rõ ràng với đầy đủ các nguyên tắc, các phương pháp cụ thể.

Song việc thực hiện nó còn là một vấn đề đáng quan tâm, họ có thể bỏ qua

hay không thực hiện một phần nào đó trong quy trình, có thể nhờ vào sự linh



47



cảm hay kinh nghiệm của cán bộ tín dụng trong quá trình thẩm định khách

hàng hoặc khách hàng truyền thống. Vấn đề này được coi là tính linh hoạt

trong công tác thẩm định song nó cũng dễ có thể gặp những rủi ro xảy ra. Do

đó, để phân tích lựa chọn đúng khách hàng, giảm thiểu rủi ro thì Ngân hàng

phải yêu cầu cán bộ tín dụng phải thực hiện nghiêm ngặt, đầy đủ tất cả các

bước trong quy trình thẩm định không được bỏ qua bất cứ bước nào.

3.2.3. Hoàn thiện hệ thống các chỉ tiêu trung bình đối với từng

ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh.

- Khi phân tích tình hình tài chính khách hàng các nhóm chỉ số được tính

ra. Song chủ yếu so sánh ngang tức là so sánh qua các năm của doanh nghiệp

để nói lên xu hướng tăng trưởng của nó. Việc so sánh dọc (so sánh với mức

trung bình của ngành) còn rất hạn chế. Là do cán bộ tín dụng chưa có được

những con số cụ thể, thống nhất về mức trung bình ngành. Tuy nhiên đây lại

là cách so sánh có thể đưa ra kết luận khả quan nhất. Một DN có thể tăng

trưởng, phát triển qua các năm nhưng so với toàn ngành thì nó lại chưa đạt

yêu cầu. Do đó, để đánh giá tình hình tài chính DN một cách chính xác thì hệ

thống các chỉ tiêu trung bình đối với ngành nghề, lĩnh vực cần được thiết lập.

Hiện nay, NH ĐT&PT Việt Nam vẫn áp dụng các chỉ tiêu chuẩn cho mọi

loại hình doanh nghiệp, lĩnh vực kinh doanh:

Hệ số khả năng thanh toán ngắn hạn > 1

Hệ số thanh toán nhanh ≥ 1

Hệ số thanh toán tức thời > 0.5

Tất nhiên với từng loại hình doanh nghiệp, với từng loại ngành nghề kinh

doanh thì điều này là không hoàn toàn chính xác. Do đó, cần phải có một sự

nỗ lực cố gắng không chỉ của Ban lãnh đạo mà còn của tất cả các CBTD để có

thể xây dựng một hệ thống chỉ tiêu phù hợp.

3.3. Kiến nghị với các cơ quan hữu quan.

3.3.1. Kiến nghị với NHNN



48



Thứ nhất: Xây dựng các chỉ tiêu trung bình ngành là một căn cứ quan

trọng làm tiêu chuẩn cho kết quả cuối cùng của công tác phân tích, đánh giá

tài chính. Đây là căn cứ cụ thể làm cơ sở cho cán bộ tín dụng trong quá trình

thẩm định. Do đó, kiến nghị với NHNN xây dựng hệ thống các chỉ tiêu trung

bình ngành cho toàn bộ hệ thống Ngân hàng Việt Nam áp dụng, tạo ra sự

thống nhất trong toàn hệ thống Ngân hàng hoặc giữa các chi nhánh trong cùng

một Ngân hàng .

Giải pháp cụ thể:

+ NHNN cùng với các cơ quan hữu quan cùng phối hợp để đưa ra các

chỉ tiêu trung bình ngành

+ Trong trường hợp chưa có đủ điều kiện để các chỉ tiêu trung bình

ngành sử dụng cho toàn hệ thống thì bản thân NHNN có thể tự nghiên cứu

cùng với sự đóng góp của các ngân hàng thương mại để đưa ra hệ thỗng chỉ

tiêu trung bình ngành.

Thứ hai: Nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín

dụng CIC

Trong mối quan hệ của Ngân hàng và khách hàng, Ngân hàng luôn có

thông tin về khách hàng. Việc nắm bắt thông tin về khách hàng giúp cho

Ngân hàng hạn chế rủi ro. Nhận thức được vai trò và yêu cầu thông tin phòng

ngừa rủi ro tín dụng của các ngân hàng thương mại, kiến nghị xin đề cập đến

nâng cao chất lượng hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng CIC.

3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng ĐT & PT Việt Nam.

Để Ngân hàng ĐT&PT Việt Nam ngày một lớn mạnh, đủ thế và lực

cạnh tranh với các ngân hàng trên địa bàn cũng như trong cả nước thì cần

phải:

Thường xưyên tổ chức các lớp đào tạo nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ

tín dụng. Tổ chức tập huấn, trao đổi kinh nghiệm giữa các cán bộ tín dụng

nhằm nâng cao nghiệp vụ.



49



Hoàn thiện quy trình tín dụng cũng như quy trình phân tích doanh

nghiệp taọ điều kiện thuận lợi cho cán bộ tín dụng trong quá trình làm việc

cũng như cho phù hợp với tình hình mới.

Phối hợp với các chi nhánh thực hiện thống kê, nghiên cứu, tổng kết

các tỷ lệ tài chính trung bình ngành nhằm hoàn thiện hơn nữa phương pháp

phân tích doanh nghiệp.

Tóm lại, sau quá trình nghiên cứu và phân tích, chuyên đề đã đưa ra

một số giải pháp và kiến nghị đến Ngân hàng Nhà Nước và Ngân hàng

ĐT&PT Việt Nam nhằm góp phần nâng cao chất lượng phân tích tài chính

doanh nghiệp phục vụ hoạt động tín dụng của Sở giao dịch Ngân hàng

ĐT&PT VN.



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (52 trang)

×