Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.49 KB, 49 trang )
Chính sách ruộng đất thời Lê sơ (1428-1527)
Vũ Thị Khánh Linh
lục khoa và lục tự, trong lục tự có thái bộc tự trông nom các nha môn và các
sở, trong các sở ấy có sở đồn điền, sở nuôi tằm và sở chăn nuôi. Các viên
chánh phó đồn diền sứ trực thuộc các cơ quan thái bộc ấy, họ có quyền được
mộ dân và sử dụng lực lượng tù binh trong việc khai phá ruộng đồn điền,
những chiến tù và tội nhân bị tội đò, tội lưu kinh dinh khai khẩn, gọi là đồn
điền binh hay thực điền binh, họ dược tổ chức thành đội ngũ do các viên đồn
điền sứ cai quản. Họ phải khai thác và sản xuất như thân phận nông nô, thạn
chí là thành lập làng xóm sau khi ruộng đát đã khia khẩn thành thục thành
ruộng đồng thì cũng có một phần ruộng đất đó dược phát canh thu tô.Nhiệm
vụ của đồn điền sứ là trông nom công việc khai khẩn kinh dinh đồn điền,
phân phối ruộng đất và thu tô cho nhà nước. Theo “Vĩnh lộc huyện phong thổ
chí lược” thì quận công thời Lê Và Lê Thọ vực người đại phương đã được sai
đem tù binh về Vĩnh Lộc lập đồn điền (năm 1947 sau cuọc chiến tranh với
Champa ) Bên cạnh việc khai phá những đồng ruộng mới, chính sách đồn
điền có nhiệm vụ biếm những vùng đất khai hoá ở các làng lân cận đất có thể
sủ dụng được. Như đã nói ở trên, các sở đồn điền thuộc sở hữu và quản lí trực
tiếp của nhà nứơc trung ương, nhà lê sơ sơ đã kế thừa và phát huy hình thức
khai hoang này từ thời Lý Trần. Trong giai đoạn đầu khi lập các sở đồn điền
của nhà Lê sơ mà trực tiếp là Lê Thái Tổ đã sử dụng chính tù binh của nhà
Minh mà quân khởi nghĩa đã bắt đựoc trong cuộc đấu tranh cùng với những tù
binh và gian than của nhà Lê, đưa họ đến những vùng đất khai hoang, vùng
biên ải để khai phá ruộng đất lập làng xóm. Có thể nói đây là một chính sách
mang nhiều tính chất tích cực, với các chính sách lập các sở đồn điền nhà Lê
sơ đã thành công trong việc mở rộng diện tích đất nông nghiệp, đất canh tác,
lập thêm các làng xóm và tạo ra các mối liên hệ giữa làng với làng làng với
nước. Quan trọng hơn đối với nhà Lê sơ đây còn là nguồng thu nhập quan
trọng của nhà nước. Chính vì vậy nhà trung ương không dùng ruộng đất đồn
điền để ban cấp cho tầng lớp quan lại hay công thần mà cố gắng bảo vệ lấy
22
Chính sách ruộng đất thời Lê sơ (1428-1527)
Vũ Thị Khánh Linh
nó, giữ nó cho riêng mình. Thậm chí cho đến cuối thế kỉ XVIII ruộng đất làng
Quán La và các khu đồn điền ở đây vẫn hoàn toàn thuộc sở hữu của nhà nước.
Như vậy chính sách đồn điền của nhà Lê sơ rõ ràng có tác dụng thiết thực
trong việc mở rộng diện tích đất canh tác, do đó có ý nghĩa tích cực.
1.4.2Chính sách khẩn hoang của nhà Lê sơ
Cùng với việc thiết lập các sở đồn điền, nhà Lê sơ còn ban hành chính
sách khẩn hoang, nhằm khai khác triệt để ruộng đất bị bỏ hoá.Bởi vậy nếu
như tù binh, phạm tội là thành phần chính lập nên các sở đồn điền thì thì đối
với chính sách khẩn hoang lại hoàn toàn khác, người tham gia khẩn hoang
phần nhiều là nông dân, nông dân nghèo ít ruông đất, trong đó có cả giai cấp
địa chủ phong kiến. Tuy đây cũng là loại ruộng đất thuộc quyền quản lý của
nhà nước, song nhà nước lại không đứng ra phát canh thu tô mà với sự cho
phép của nhà nước người nông dân trực tiếp đứng ra khai thác và tổ chức sản
xuất, do đó họ cũng là người trực tiếp được hưởng những thành quả của mình,
chứ không phục vụ lợi ích của nhà nước. Thông qua chính sách khẩn hoang
đã hình thành nên hai loại ruộng đất chính là ruộng đất thông cáo và ruộng
chiếm xạ.
Ruộng thông cáo là ruộng bỏ hoá ở các làng xã được nhà nước cho
phep khai phá cày cấy sau khi đã báo lên. Họ được hưởng quyền cày câyc số
ruộng này và truyền lại cho con cháu,song không được biến thành ruộng tư
hữu mà vẫn thuộc sở hữu nhà nước.
Ruộng chiếm xạ cũng là một loại ruộng khẩn hoang nộp thuế. Thấy
được tình trạng hoang hoá ruộng đất trong nước còn quá lớn các vị vua thời
Lê sơ, mà nhất là Lê Thánh Tông mới lệnh cho người khai hoang, với chính
sách làm được bao nhiêu hưởng bấy nhiêu. Với chính sách này nhà Lê đã
khuyến khích được đông đảo nông dân và các thế gia tham gia khẩn hoang.
Sau khi biến đất hoang hoá thành ruộng đồng thì khai lên Bộ Hộ làm ruộng
tư. Như vậy, ruộng công của làng xã vốn là ruộng vĩnh nghiệp tô thuế chỉ nộp
23
Chính sách ruộng đất thời Lê sơ (1428-1527)
Vũ Thị Khánh Linh
bằng tiền, thuộc quyền sở hữu tư nhân, do vậy loại ruộng đất này được phép
đem mua bán. Tuy nhiên, khác với loại ruộng đất tư hữu thông thường, ruộng
chiếm xạ có thể bị nhà nước công hữu hoá, nhưng không có nghĩa là có quyền
bắt làng phải làm theo quy chế quân điền đã đặt ra với ruộng đất công làng xã.
Những người cày ruộng chiếm xạ, ngoài việc nộp thuế, phải chụi các nghĩa vụ
đối với nhà nuớc. Nhà nước bảo vệ loại ruộng chiếm xạ này như bảo vệ ruộng
đất công làng xã, chủ yếu nhằm giữ thu nhập.
Không dừng lại ở việc khẩn hoang ruộng đất hoang hoá các vùng lân cận làng
xã, đồng ruộng mà chính sách đó của nhà Lê sơ còn được áp dụng và mở rộng
đến các vùng biên giới.
Như vậy, chính sách khẩn hoang của nhà Lê đã có tác dụng quan trọng
trong việc công hữu một phần ruộng đất khẩn hoang được trong nhân dân, mở
rộng diện tích sở hữu của nhà nước nhân đó tăng thêm thu nhập, vì nhà nước
không đánh thuế ruộng tư. Nói tóm lại cho đên thế kỉ XV bộ phận ruộng đất
thuộc sở hữu nhà nước vẫn giữ một vai trò quan trọng trong chế độ ruông dất
chung. Đó vẫn là cơ sở kinh tế chủ yếu của nhà nước trung ương tập quyền và
là nguồn sống quan trọng của người nông dân ở làng xã. Để giữ vững cơ sở
đó nhà nước đã tìm mọi cách bảo vệ nó, chống lại nạn tư hữu hoá, nhà nước
cũng tang hơn nữa quyền chi phối của mình. Thống nhất cách sử dụng và
phân phối ruộng đất công làng xã, mở rộng việc khẩn hoang trên cơ sở điều
hoà quyền lợi giữa nhà nước và tư nhân , củng cố lại hệ thống đồn điền…
Nhưng thế kỉ XV cũng là thời điểm quan trọng của sự phát triển chế độ
tư hữu, vốn đã được khuyến khích thhúc đẩy từ những thế kỉ XIII – XIV. Xu
hướng ngày càng thu hẹp của bộ phận ruộng đất thuộc sở hữu nhà nứoc từng
bước phát triển mặc mọi cấm đoán hạn chế của nhà nước.
2. Ruộng đât công làng xã, chế độ quân điền thời Lê sơ.
2.1 Ruộng đất công làng xã.
24
Chính sách ruộng đất thời Lê sơ (1428-1527)
Vũ Thị Khánh Linh
Ruộng đất công làng xã hay xã dân công điền là một trong những bộ
phận quan trọng nhất trong ruộng đất quốc hữu. Bộ phận ruộng đát này có
một lịch sử lâu dài trước thời Lê sơ nó đã tồn tại và sau thời Lê sơ nó vẫn
được duy trì và kéo dài cho đến cuộc cải cách ruộng đất mới bị tiêu diệt hoàn
toàn, đồng thời bộ phận ruộng đất này còn thuộc quyền sở hữu tối cao của nhà
nước phong kiến, bởi vậy nhà nước có quyền thu tô. Các khác biệt lớn nhất
giữa ruộng đát công làng xã với ruộng đất quốc hữu là nó còn mang tính chất
công hữu của từng thôn xã, tức lảtuộng đất công của xã nào chỉ chia cho dân
xã ấy được cày cấy, bộ phận ruộng đất này còn gọi là xã dân công điền. Đến
thời Lê sơ, tuy ruộng tư đã phát triển nhưng ruộng công vẫn chiếm ưu thế,
biểu hiện là diện tích công điền,công thổ của thoon xã còn chiếm một phạm vi
khá lớn, với phần lớn là ruộng đất công trước kia duy trì lại và một phần do
nhà nước cấp thêm. Số ruộng đất nhà Lê sơ tịch thu sau khi chiến thắng quân
Minh một phần cũng được sáp nhập vào ruộng đất công làng xã, mặc dù số
ruộng đất đó không nhiều ( phần lớn được ban cấp lộc điền và làm ruộng quốc
khố). Số ruộng đất này được nhà nước đặt các xã trưởng, người đại diện cho
chính quyền trung ương vào trong bộ máy quản lý xã thôn. Mặt khác ruộng
đất công làng xã nào vẫn thuộc sỏ hữu làng ấy chia cấp và quản lý, quan lại
làng nào vẫn nhận ruộng khẩu phần làng ấy theo tỉ lệ với số ruộng đất tại
đấy… Vậy hai thứ sở hữu ruộng đất và sở hữu công xã đã thâm nhập vào
nhau nhưng vẫn trên thế cân bằng, không bên nào thôn tính hẳn bên nào. Cho
nên đây là một hình thức sở hữu kép nhà nước – công xã, là hình thức tối đa
mà nhà nước phong kiến có thể làm và chấp nhận được. Như vậy, các kết cấu
đồng tâm thời trước phải thay đổi bằng sự thu hẹp khoảng cách giữa hai thứ
sở hữu nhà nước và công xã, để tiến sang một kết cấu vừa đồng tâm vừa trùng
lặp, sở hữu làng xã phong kiến. Nhưng cần chú ý rằng bên cạnh sởt hữu làng
xã phong kiến vẫn còn sở hứu làng xã và sở hữu công xã, sở hữu nhà nước
bao gồm các loại ruộng đất sung công, đồn điền, tịch điền, lộcc điền. Còn sở
25