1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Báo cáo khoa học >

2 Chế độ quân điền thời Lê sơ.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.49 KB, 49 trang )


Chính sách ruộng đất thời Lê sơ (1428-1527)



Vũ Thị Khánh Linh



đã biết cuộc kháng chiến chống quân Minh sở dĩ đi đến thắng lợi vẻ vang, chủ

yếu là do những hi sinh to lớn của tầng lớp nô tỳ và nông dân tự do, hai tầng

lớp lao động đông đảo nhất trong xã hội. Khi cầm vũ khí họ đứng lên theo

nghĩa quân Lam Sơn, nô tỳ đã tự thủ tiêu chế độ đại điền trang và chế độ nô

tỳ. Trong kháng chiến chống quân Minh và ngay sau khi cuộc kháng chiến

giành được thắng lợi rất có thể nô tỳ và nông dân ở các địa phương đã chủ

động đứng lên giành lấy ruộng đất của quý tộc, nhất là của quý tộc đầu hàng

Minh để cày cấy. Nhà Lê sơ vẫn thưà nhận thực tế ấy cho đến năm 1429, Lê

Thái Tổ đã cải biến tình hình ấy thành một chế độ mới gọi là chế độ quân

điền.

2.2.1 Chính sách quân điền dưới thời Lê Thái Tổ

Khi ban hành chính sách quân điền, Lê Thái Tổ có chủ ý dành nhiều

ruộng nhiều ruộng cho quân lính là những người đã hi sinh nhiều trong cuộc

đấu tranh đánh đuổi quân Minh đưa nhà Lê lên ngôi báu năm 1429 sở dĩ được

đưa ra chủ yếu là do yêu cầu về ruộng đất của nô tỳ và nông dân bằng cách

ban hành chế độ quân điền. Phải nói rằng, Lê Thái Tổ là nhà “kinh bang tế

thế” sáng suốt, ông đã nhìn thấy yêu cầu bức thiết của xã hội, và ông đã đề ra

biện pháp giải quyết nhằm thoả mãn yêu cầu chính đáng ấy. Trong điều kiện

của xã hội Việt nam hồi thế kỉ XV khi chế độ đại điền trang đã tan rã trên

thực tế, chế độ quân điền có lợi cho sản xuất của xã hội. Tác dụng tích cực

của chế độ quân điền là làm cho nhân dân tích cực sản xuất để khôi phục kinh

tế sau 20 năm chiến tranh xâm lược đã tàm phá đất nước. Chế độ quân điền có

tác động tích cực trong việc thúc đẩy nền kinh tế nông nghiệp Việt nam ở thế

kỉ này phát triển, khi nền kinh tế đại điền trang của thời trước không còn nữa.

Với chế độ quân điền, tầng lớp nô tỳ đã biến thành tiểu nông, họ có một số

ruộng đất tối thiểu để tự ý cày cấy và hưởng toàn bộ hoa lợi sau khi đã nộp đủ

tô cho nhà nứơc. Chế độ quân điền đã thực tế thay thế chế độ đại điền trang



27



Chính sách ruộng đất thời Lê sơ (1428-1527)



Vũ Thị Khánh Linh



và được nhân dân hoan nghênh. Đó là một bước tiến của xã hội trong điều

kiện chế độ đại điền trang đã cản trở sự phát triển của sức sản xuất.

2.2.2 Chính sách quân điền dưới thời Lê Thánh Tông

Chính sách quân điền của thời Lê sơ phải đến thời Lê Tánh Tông mới

thực sự hoàn thành các quy chế về quân điền. Năm 1477 cùng với chế độ lộc

điền, Lê Thánh Tông đã sai các triều thần bàn định và ban bố chế độ quân

điền. Quy chế quân điền thời Hồng Đức được xem là mẫu mực cho cách thức

quân điền trong thời nhà Lê. Các triều đại phong kiến vào cuối thời nhà Lê

sau này cũng dựa vào quy chế Hồng Đức, châm chước thay đổi ít nhiều để thi

hành. Nội dung của chế độ quân điền thời Lê sơ được thể hiện qua quy định

năm 1481 còn chép trong Dư hạ tập. Cụ thể như sau:

Nói chung,tất cả mọi người trong xã từ quan viên đến các hạng cô quả,

tàn tậi vợ con những phạm nhân đều được chia ruộng đất công làng xã. Phạm

vi chia tuy rộng rãi như vậy nhưng mức độ chia lại rất chênh lệch tuỳ theo

phẩm tước và thứ hạng xã hội. Mỗi lần chia ruộng đất, quan phủ huyện phải

đo đạc lại ruộng đất thống kê dân số trong xã sắp xếp thành từng hạng, mỗi

hạng như vậy có phần ruộng bằng nhau, nhưng trên thực tế vẫn có sự chênh

lệch. Chẳng hạn như quan viên tam phẩm được 11 phần, xuống đến dân thuộc

1



loại cố hạng ( làm thuê) chỉ còn 3 2 và đến hạng tàn tật, quả phụ, cô nhi …

chỉ còn 3 phần.

Ruộng quan viên từ tứ phẩm trở lên đã được cấp lộc điền của nhà nước

rồi thì theo nguyên tắc không cấp thêm ruộng đất công của xã. Quan viên hào

lý trong xã không những được nhiều phần ruộng đất, mà còn dung uy quyền

chiếm giữ những loại ruộng đất tươi tồt nhất, màu mở nhất.

Ruộng đất công của xã nào chỉ chia cho xã ấy nhưng đầu thời Lê sơ do

hậu quả của cuộc thống trị tàn bạo của nhà Minh có nhiều xã dân cư phiêu



28



Chính sách ruộng đất thời Lê sơ (1428-1527)



Vũ Thị Khánh Linh



tán, đồng ruộng bị bỏ hoang nhiều nên nhà nước qui định những xã nào dân

ít, ruộng công nhiều thì có thể chia bớt cho xã bên cạnh thiếu ruộng.

Thời gian quân cấp là 6 năm 1 lần, mỗi lần đến kì cấp quân quan phủ

huyện phải xuống khám đạt lại ruộng đát và định việc phân cấp. Việc đo đạc

và phân cấp phải tiến hành váo lúc đồng áng thong thả hay vào lúc nông nhàn

và đảm bảo hoàn thành trước vụ cày cấy để không gây trở ngại đến sản xuất

nông nghiệp. Pháp luật thời bấy giờ qui định ruộng vụ mùa ( thu điền) thì đo

vào mùa xuân, chia vào mùa thu; ruộng vụ chiêm ( hạ điền) thì đo vào mùa

thu năm nay và phải chia vào mùa xuân năm sau8

Đến kì hạn 6 năm mọi người phải trả lại ruộng khẩu phần cũ để phân

phố lại, người nào chiếm quá hạn đều bị trừng phạt nặng 9. Nhưng trong kì hạn

6 năm nếu có trường hợp quan viên thăng hay giáng, những dân chết hay hết

tang hoặc chưa đến tuổi được chia thì xã trưởng có quyền lấy bớt hay tạm cấp

thêm ruộng đất.

Nói chung, những người cày ruộng khẩu phần đều phải nộp tô cho nhà

nước. Riêng quan viên từ tứ phẩm trở lên nếu được cấp them ruộng công ở xã

thì phần ruộng cấp thêm này không phải nộp tô. Vì vậy trên thực tế phần

ruộng cấp thêm ấy có tính chất như lộc điền và có thể coi thêm như phần bổ

sung của lộc điền. Đất làm vườn thì quan viên được trừ 80 thứơc, quân dân

được trừ 50 thước, người tàn tật cô quả thì được trừ 25 thước, còn ngoài ra

đều phải trưng tô như thường dân. Nhưng mức độ ruộng khẩu phần này nhẹ

hơn so với mức tô các loại ruộng khác, nên cày loại ruộng này bị nộp tô vẫn

là một quyền lợi, thực tế người nông dân nhận ruộng cày cấy trở thành tá điền

cho nhà nước. Còn tầng lớp quan viên, địa chủ nhận ruộng thường không phải

để tự cày cấy mà là phát canh lại cho nông dân để thu tô nhiều hơn mức tô

của nhà nước quy định. Những người này thực tế đã trở thành một tầng lớp

8 Điều 346 trong Lê triều hình luật

9

Điều 342 qui định: ngưòi nào chiếm quá hạn 1 mẫu bị 80 trượng, 10 mẫu bị biến một tư và bồi

thường hoa lợi cho nhà nước



29



Chính sách ruộng đất thời Lê sơ (1428-1527)



Vũ Thị Khánh Linh



bóc lột đứng trung gian thu tô của nông dân rồi nạp một phần cho nhà nứơc ,

phần còn lại thì chiếm giữ lấy.

Có thể nói, chính sách quân điền thời Hồng Đức đã thể hiện ý đồ thống

nhất cách chia ruộng và định kỳ chia ruộng công làng xã của nhà Lê sơ. Đó là

sự phủ định quyền chi phối theo tục lệ của làng xã đối với ruộng đất công,

mặc nhà nước vẫn công nhận và duy trì nguyên tắc “ ruộng công làng nào vẫn

chia cho dân làng ấy cày cấy” . Không những thế trong khi thống nhất thể lệ

chia ruộng, nhà nước trung ương còn ràng buộc làng xã phải tuân theo những

quy định về phân loại và hưởng thụ của mình. Theo những quy định này, các

quan lại chức sắc, binh sĩ của nhà nước được xếp lên trên và được ưu ái rõ rệt,

được thể hiện qua việc họ được ban cấp ruộng lộc, nếu không được cấp đủ số

ruộng này họ được cấp thêm ruộng khẩu phần.

Ruộng đất công làng xã vẫn thuộc quyền sở hữu tối cao của nhà nước

trung ương do đó loại ruộng đất này không được đem ra mua bán hay chuyển

nhượng. Ngoài nhà vua ra, không ai, không một thế lực nào được quyền dùng

một phần đất công để ban cấp hay làm một việc gì. Nếu vi phạm những

nguyên tắc đó đều phải chiụ phạt, nhưng trên thực tế, hệ thống chính quyền từ

vua cho đến người nông dân là cả một bộ máy đồ sộ, với hang loạt các tầng

cấp thứ bậc chức sắc của các hạng quan viên, tương ứng với nó là hệ thộng

ruộng đất được phân chia phù hợp, bởi vậy chính sách ruộng đất của nhà Lê

sơ dù có quy mô triệt để đến đâu, thì cũng không tránh khỏi sự sai lạc trong

quá trình thực hiện. Thậm chí, còn không tôn trọng cả các nguyên tắc về

chính sách ruộng đất, trong đó có chính sách về ruộng đất công làng xã và

chính sách quân điền. Một lần nữa, nhà Lê sơ lại gián tiếp góp phần mở rộng

giai cấp địa chủ phong kiến. Chính sách quân điền đã thể hiện rõ tính giai cấp

của nhà nước trung ương ở nửa sau thế kỉ XV. Nó là biện phấp khẳng định

quyền sở hữu trực tiếp của nhà vua đối với ruộng đất công làng xã. Chính

sách quân điền ít nhiều đưa lại ruộng đất cho mọi tầng lớp nhân dân, trừ

30



Chính sách ruộng đất thời Lê sơ (1428-1527)



Vũ Thị Khánh Linh



những làng xã không có ruộng công (các xã tư điền), tạo điều kiện làm ăn

sinh sống cho tất cả mọi người, giải quyết yêu cầu ruộng đất của nông dân

nghèo. Bên cạnh đó, chính sách quân điền thời Lê sơ còn khắc sâu thêm sự

phân hoá xã hội ngày càng sâu sắc, sự phân biệt đẳng cấp trong những người

được chia. Đồng thời, góp phần củng cố quyền sở hữu của nhà nước về ruộng

đất công làng xã, trói buộc người nông dân ngày càng gắn chặt với nông thôn,

trong khi đó chính nền kinh tế tiêủ nông lại tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát

triển của sản xuất hàng hoá. Phải chăng đây cũng chính là nguyên nhân dẫn

đến tình trạng chính sách quân điền nhanh chóng mất hết tác dụng tích cực, và

ngày càng trở thành ghánh nặng của nhân dân.

3. Sự phát triển của chế độ tư hữu ruộng đất

3.1. Những chính sách ruộng đất của nhà Lê sơ đối với ruộng đất tư

hữu

Bên cạnh ruộng công, ruộng tư thời Lê sơ cũng đã phát triển, một số là

của địa chủ quan liêu và đại bộ phận là của địa chủ bình dân. Ruộng tư không

phải nộp tô cho nhà nước, nhà nước thừa nhận nhưng không khuyến khích

loại ruộng này. Bộ luật nhà Lê, nhất là chương Điền sản đã nói đến các thủ

tục làm văn tự khế ước trong vấn đề chuyển nhượng, tranh chấp, kiện tụng

hoặc kế thừa về ruộng đất.

Sự phát triển của ruộng tư thời Lê sơ phản ánh xu thế phát triển khách

quan về ruộng đất trong lịch sử Việ nam, xác lập quan hệ sản xuất phong kiến

phổ biến địa chủ - tá điền trong xã hội. Tuy nhiên, đây là một quá trình tư hữu

hóa không tự nhiên, không được nhà nước khuyến khích, nên đã dẫn đến

những tệ nạn như chiếm công vi tư, chấp chiếm ruộng đất…dẫn đi tới tình

trạng khủng hoảng ruộng đất.

Ruộng đất tư hữu: phát triển từ những thế kỉ trứơc, đến thế kỉ XV, có

điều kiện ngày càng mở rộng. Trong bộ phận này có ba loại:



31



Ruộng của nông dân tư hữu



Chính sách ruộng đất thời Lê sơ (1428-1527)





Ruộng của địa chủ







Vũ Thị Khánh Linh



Một số ít điền trang



Sự gia tăng của hàng ngũ quan lại góp phần làm cho bộ phận ruộng tư hữu

của địa chủ ngày càng phát triển, trong lúc đó các điền trang ngày càng thu

hẹp lại. Theo đà phát triển chung, ruộng đất tư hữu của giai cấp địa chủ ngày

càng lấn át ruộng đất công. Giai cấp địa chủ nhân đó lũng đoạn quyền hành ở

làng xã, ra sức bóc lọt đối với nông dân, những người trực tiếp tham gia sản

xuất. Còn chế độ sở hữu ruộng đất công của nông dân tiểu tư hữu chỉ có tính

chất nhỏ bé của những người nông dân lao động.

3.1.1. Về mua bán ruộng đất

Việc mua bán ruộng đât có hai hình thức cơ bản là bán đợ và bán đứt

Bán đợ ( hay bán điển) là một hình thức cầm ruộng có điều kiện,



a.



trong khoảng thời gian 30 năm đối với người than thuộc trong họ và 20 năm

đối với người nước ngoài, người bán có quyền đem đủ số tiền bán chuộc lại

ruộng. Trong thời gian ấy, mà người bán không chuộc lại thì chủ mua có

quyền sở hữu như là mua đứt.

Bán đứt ( hay bán đoạn) là bán vĩnh viễn, nhường hẳn quyền sở hữu



b.



ruộng đất cho người mua, người bấn không có quyền đối với thửa ruộng ấy

nữa10.

Trong xã hội có giai cấp đối kháng, việc mua bán ruộn đát ấy là mối

manh của biết bao nhiêu việc tranh chấp kiện cáo, là những thủ đoạn của

những người giàu có, thế lực ức hiếp dân nghèo. Khế ước mua bán cầm cố

cũng được pháp luật quy định chặt chẽ, được hệ thống lại như sau:

- Ruộng đất công làng xã, ruộng đất hương hoả của các dòng họ thuộc

loại không được mua bán, những người vi phạm quy định sẽ bị xử phạt rất

nặng (đánh 80 trượng, đồ làm khao đinh hay sung làm quân bản phủ).



10 Xem chương điền sản và tăng bố điền sản trong Lê triều hình luật



32



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

×