Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.49 KB, 49 trang )
Chính sách ruộng đất thời Lê sơ (1428-1527)
•
Ruộng của địa chủ
•
Vũ Thị Khánh Linh
Một số ít điền trang
Sự gia tăng của hàng ngũ quan lại góp phần làm cho bộ phận ruộng tư hữu
của địa chủ ngày càng phát triển, trong lúc đó các điền trang ngày càng thu
hẹp lại. Theo đà phát triển chung, ruộng đất tư hữu của giai cấp địa chủ ngày
càng lấn át ruộng đất công. Giai cấp địa chủ nhân đó lũng đoạn quyền hành ở
làng xã, ra sức bóc lọt đối với nông dân, những người trực tiếp tham gia sản
xuất. Còn chế độ sở hữu ruộng đất công của nông dân tiểu tư hữu chỉ có tính
chất nhỏ bé của những người nông dân lao động.
3.1.1. Về mua bán ruộng đất
Việc mua bán ruộng đât có hai hình thức cơ bản là bán đợ và bán đứt
Bán đợ ( hay bán điển) là một hình thức cầm ruộng có điều kiện,
a.
trong khoảng thời gian 30 năm đối với người than thuộc trong họ và 20 năm
đối với người nước ngoài, người bán có quyền đem đủ số tiền bán chuộc lại
ruộng. Trong thời gian ấy, mà người bán không chuộc lại thì chủ mua có
quyền sở hữu như là mua đứt.
Bán đứt ( hay bán đoạn) là bán vĩnh viễn, nhường hẳn quyền sở hữu
b.
ruộng đất cho người mua, người bấn không có quyền đối với thửa ruộng ấy
nữa10.
Trong xã hội có giai cấp đối kháng, việc mua bán ruộn đát ấy là mối
manh của biết bao nhiêu việc tranh chấp kiện cáo, là những thủ đoạn của
những người giàu có, thế lực ức hiếp dân nghèo. Khế ước mua bán cầm cố
cũng được pháp luật quy định chặt chẽ, được hệ thống lại như sau:
- Ruộng đất công làng xã, ruộng đất hương hoả của các dòng họ thuộc
loại không được mua bán, những người vi phạm quy định sẽ bị xử phạt rất
nặng (đánh 80 trượng, đồ làm khao đinh hay sung làm quân bản phủ).
10 Xem chương điền sản và tăng bố điền sản trong Lê triều hình luật
32
Chính sách ruộng đất thời Lê sơ (1428-1527)
Vũ Thị Khánh Linh
- Ruộng đất đã bán đoạn ( tức là bán hẳn) thì không được quyền đòi
chuộc ( trừ trường hợp là ruộng đát hương hoả)
-Nếu làm giấy tờ giả mạo để bán ruộng đát hương hoả thì bị xử theo tội
bất hiếu, người ngoài mua thì cho chuộc, người than trong họ mua thì mất
tiền. Người bán bị phạt 100 trượng.
- Con cái bán trộm ruộng đất của cha mẹ thì bị xử phạt 50 trượng, biếm
2 tư. Chồng chết con cái còn nhỏ, mà vợ bán của cải, ruọng đất thì bị phạt 50
roi, truy tiền trả lại người mua
- Ruộng đất bán đợ thì cho chuộc,. Nhưng nếu chủ bán xin chuộc mà
không cho chuộc hoặc không xin chuộc mà cưỡng bức phải chuộc đều bị phạt
80 trượng. Nếu đẻ quá niên hạn ( 30 năm đối với người trong họ, 20 năm đối
với người ngoài họ) thì không được chuộc nữa. Hàng năm có một thời gian
chuộc ruộng đát nhất định ( ruộng mùa lấy ngày 15/3 làm mốc cuối, ruộng
chiêm lấy ngày 15/9 ) không đúng hạn thì không được chuộc11
Như vậy đến thế kỷ XV việc mua bán ruộng đất ngày càng phát triển,
nhà Lê sơ đã theo luật của các triều đại trước khẳng lại lệ giữ đất và hạn
chuộc ruuộng. Điều đó có nghĩa là bằng cánh chiếm giữ lâu năm, giai cấp địa
chủ có thể mua ruộng đất của nông dân nghèo với một giá rẻ mạt – theo chế
độ bán đợ.
3.1.2 Về ruộng đất bán lại cho con cháu
Chế đọ kế thừa ruộng đất nhất là kế thừa hương hoả từ thời lê sơ cũng
đựoc quy định rất chặt chẽ. Trong thời Thiệu Hoà (1443 – 1454 ) Nhân Tông
ban bố 14 điều luật về tư hữu ruộng đất thì trong đó có 8 điều dành cho việc
kế thừa ruộng đất, theo Phan Huy Chú thì: “từ đó về sau các vụ tranh kiện về
phân chia tài sản trong dân giân mới có tiêu chuẩn”. Trong luật Hồng Đức
còn dành riêng 13 điều quy định việc kế thừa hương hoả. Theo những điều
luật ban hành gồm những điểm lớn sau đây:
11 Trương Hữu Quýnh, Chế độ ruộng đất Việt nam từ thế kỉ XI _ XVII, NxbCTQG, Hà Nội 2004, tr 236,237
33
Chính sách ruộng đất thời Lê sơ (1428-1527)
Vũ Thị Khánh Linh
- Theo điều lệ chung, khi cha mẹ chết phải trích ra 1/20 tài sản ruộng
đất để làm ruộng hương hoả, phần ruộng này được giao cho người con trai cả
trông coi, cày cấy để lấy hoa lợi chi tiêu vào ngày giỗ tết. Trường hợp cha mẹ
chết không kịp viết trúc thư các con cũng phải làm đúng theo lệ này. Nếu cha
mẹ là trưởng tộc thì ruộng hương hoả được gộp vào của chủngồi mới được
trích ra 1/20để làm ruộng hương hoả. Trong trường hợp ruộng ít, anh em
đông thì nhà nước châm chước cho anh em được thoả thuận với nhau mà để
ruộng hương hoả. Nếu không còn con trai cả thì phần ruộng hương hoả được
giao cho người con gái trưởng (Điều 390). Trường hợp con trai cả chết mà
không có cháu trai thì phần ruộng hương hoả cũng giao cho người con gái kế
tiếp. Tuy nhiên khi người con gái này chết thì ruộng hương hoả lại giao cho
người con gái đầu của người con trai trưởng đã chết (Điều 396).
Điều đáng chú ý là người con trai cả hư hỏng hay bị phế tật, cha mẹ có
thể giao phần ruộng hương hoả cho người con trai thứ, nhằm mục đích làm
“sang tỏ sự bất tuyệt của dòng dõi” (Điều 391,392). Trường hợp con trai
trưởng và cháu trai trưởngphiêu cư nơi khác, lâu ngày bỏ việc thờ cúng thì họ
hàng cáo với quan ty, gioa ruộng hương hảo cho người trong họ trông nom,
chờ khi những người trong đó trở về thì trả lại.
Sau 5 đời thờ cúng, theo quy định là đã Hết phục, hết tình số ruộng này
được chuyển thành ruộng tế, người trong họ không được chia nhau thừa
hưởng”12.
Nhà nước thừa nhận sự tồn tại của tục lên chia tài sản, việc phân chia
đó không phân biệt con trai, con gái; đối với con của vợ lẽ, con nuôi thì phân
chia không được quá chênh lệch. Trên thực tế chính sách của nhà nứơc đặt ra
đối với các loại ruộng đất này chỉ là việc luật pháp hoá các tục lệ của nhân
dân.
12 Sđd, tr238
34
Chính sách ruộng đất thời Lê sơ (1428-1527)
Vũ Thị Khánh Linh
Như vậy có thể thấy rằng, nh à Lê s ơ tuy không được hưởng hoa lợi từ
các loại ruộng đất tư này, song điều đó không có nghĩa là các vị vua nhà lê sơ
không quan tâm đến tình trạng ruộng đất tư, mà ngược lại nhà nước đã đưa ra
những luật lệ quy định cách rõ ràngo về việc mua bán ruộng đất, về ruộng
hương hoả cùng với các cách phân chia. Từ đó có thể thấy rằng, nhà nước Lê
sơ đang cố gắng đi sâu hơn nữa vào đời sống cụ thể của nông dân, đồng thời
ngày càng mở rộng phạm vi ảnh hưởng của mình đói với làng xã.
3.1.3. Về ruộng đất của vợ và chồng
Với những quy định về loại ruộng đất này, một lần nữa nhà Lê sơ
khẳng định quyền thế bao trùm của mình. Đó là loại ruộng đất của vợ, của
chồng và thuộc sở hữu của họ, như trong chính sách ban cấp ruộng đất công
làng xã như gia đình nào đã có đủ ruộng đất cày cấy thì không được ban cấp
nữa. Trong trường hợp vợ hay chồng chết trước thì ruộng đất riêng của người
đó đựoc phân chia mà không được biết thành ruộng đất riêng. Nếu người
chồng hoặc ngưòi vợ đi bước nữa thì họ sẽ mất quyên được chia ruộng đất đó,
và phải trả lại ruộng đất đó cho gia đình chồng hoặc vợ.
Trường hợp vợ chồng tuyệt tự thì toàn bộ ruộng đất của gia đình được
chia làm 2 phần: một phần cho họ nội để lo việc tế tự, phần còn lại cho họ
ngoại để phụng sự gia đường.
Trường hợp chồng chết con còn nhỏ, vợ cải giá và bán ruộng đất của
cải thì bị phạt 50 roi truy tiền trả lại cho chủ. ruộng đất trả cho con cái.13
Tóm lại toàn bộ điều luật nói trên về vấn đề ruộng đất thể hiện rõ sự
phát triển của tư tưởng pháp lý của nhà Lê, đồng thời cũng phản ánh sự phát
triển của chế đọ tư nhân về ruộng đất.
3.2 Về ruộng đất địa chủ
13 Sđd, tr240
35
Chính sách ruộng đất thời Lê sơ (1428-1527)
Vũ Thị Khánh Linh
Ngay t ừ thời hình thàh nhà nước Lê sơ, tức là ngay từ vị vua đầu tiên
là Lê Thái Tổ, nhà Lê sơ đã ban hành hang loạt các chính sách ban thưởng
ruộng đất rất hậu cho các công thần, sau đó đến thời Lê Thánh Tông với
những quy định cụ thể, rõ ràng về chính sách lộc điền ban thưởng ruộng đất
cho tầng lớp quý tộc quan lại ( từ tứ phẩm trở lên) nhà nước Lê sơ đã từng
bức tạo điều kiện và mở rộng giai cấp địa chủ trong xã hội. Mặc dù ruộng lộc
điền mang tính chất là ruộng thế nghiệp nó vẫn thuộc quyền sở hữu của nhà
nước, nhưng lại chụi sự quản lý trực tiếp của địa chủ phong kiến. Bên cạnh đó
tình trạng tranh giành, chiếm đoạt ruộng đất tư hữu của công làng xẫngỳ càng
phát triển mạnh mẽ,với đủ các hình thức chiếm đoạt (như: làm văn khế giả
…). Cùng với những hoạt động mua bán ruộng đất, địa chủ phong kiến ngày
càng khẳng địnhvị thế và tiềm lực nhất là về kinh tế của mình trong xã hội.
Phải chăng đây chính là mặt trái của các chính sách mà nhà Lê sơ đã ban bố
và thực hiện, nhưng đông thời cũng chính nhà nước lại phải ban bố hang loạt
các biện pháp tình trạng chiếm đoạt, biến ruộng đất công thành ruộng đất tư
hữu và để ổn định tình hình xã hội. Trong điều 369 có quy định : “ nhà quyền
quý chiếm đoạt ruộng đất của lương dân, một mẫu trở lên thì sử phạt, 5 mẫu
trở lên thì xử biếm, quan từ tam phẩm trở lên thì thì xử gia 2 bậc. Đều phải
bồi thường nhu luật.” hoặc theo điều 352: “những ruộng đất không ghi ở sở
nhà nướ, do dân chiếm đã lâu năm có người kiện bậy hay có người lấy văng
bằng từ lâu đời ra để tranh hưởng thì đều xử biếm 2 tư. Nếu lấy ruộng đất của
người khác mà dâng nộp bậy thì bị xử biếm 3 tư, đòi tiền địa sản trả lại.” Có
thể thấy bộ máy quan liêu thời Lê sơ, mặc mọi cố gắng chấn chỉnhcủa bộ máy
thống trị, vẫn ngày càng xa đoạ, hướng vào con đường mưu lợi làm giàu, bất
chấp luật phápnghiêm ngặt của nhà nứoc, bọn này đã tìm mọi cách “ chiếm
công quá hạn không trả”, “lạm chiếm ruộng công không theo điều chế”..tình
hình phát triển đến mức, ngay cả ở Lam Sơn, quê hương của nhà Lê mà bọn
quan lại, thế gia cũng gia tay chấp chiếm hầu hết ruộng công. Ở quê hương
36