1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Báo cáo khoa học >

3Tình hình điền trang

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (271.49 KB, 49 trang )


Chính sách ruộng đất thời Lê sơ (1428-1527)



Vũ Thị Khánh Linh



Điền trang của nhà Lê sơ được lập ra bởi chính địa chủ và đại địa chủ,

với sự giàu có của mình họ đã cho xây dựng các điền trangvà chứa chấp dân

lưu vong. Tuy nhiên dưới thời nhà Trần nền kinh tế điền trang thường gắn với

chế độ nông nô và nô tỳ, mà ở nhà lê sơ nguồn nô tỳ đã cạn dần, do sự hạn

chế cấm đoán của nhà nước và do cuộc đấu tranh của nô tỳ và những ngưòi

sản xuất trực tiếp đã gây ảnh hưởng quan trọng đến sự tồn tại của nó. Trước

tình trạng điền trang được xây dựng lại và ngày càng phát triển mạnh mẽ,

nhằm ngăn ngừa hiện tượng này nhà Lê sơ đã áp dụng một số biện pháp

nhưng không mang lại kết quả gì to lớn.tuy nhiên, sự phát triển của chế độ

điền tranổơ thế kỉ XV là không phù hợp, do các điền trang được xây dựng

một cách ồ ạt, không theo một hệ thống nào, đây cũng là nguyên nhân dẫn

đến sự sụp đổ của nhà Lê.

3.4.Ruộng đất nhà chùa

Bên cạnh các loại ruộng tư của nông dân, địa chủ, trong bộ phận ruông

đất công làng xã còn có ruộng đất nhà chùa. Nếu nhu trong thời Lý Trần Phật

giáo trở thành quốc giáo, các tăng ni phật tử của Phật giáo được kính trọng

kiêng nể, hang loạt chùa triền được xây dựng, nhà nước hànho năm đều ban

thưởng chu cấp cho nhà chùa, thâm chí đích than nhà vua, mỗi năm vào đầu

mùa xuân cũng phải than chinh đi cày, gọi là ruộng tịch điềnthì đến nhà Lê

sơ, đạo Phật đã mất đi vị trí độc tôn của mình, do đó ruộng đất của nhà chùa

cũng bị cắt giảm nghiêm trọng, chỉ còn lại một số ruộng do các chủ thí

cúng.Như vậy cho đến thế kỉ XV chế độ sở hữu ruộng đất của nhà chùa về cơ

bản đã chấm dứt.

Nói tóm lại cho đến cuối thế kỉ XV chế độ ruộng đất của nhà Lê sơ đã

phát triển theop con đường không mong muốn của nhà nước trung ương, sở

hữu của địa chủ về ruộng đất ngày càng phát triển lớn mạnh. Sự suy yếu của

nhà nứoc trung ương ngày càng rõ rệt, đã tạo điều kiện thuận lợi cho bọn

quan lại ra sức đục khoét, vơ vét của cải của nhân dân để làm giàu. Sự quan

38



Chính sách ruộng đất thời Lê sơ (1428-1527)



Vũ Thị Khánh Linh



tâm của nhà nước đến nông nghiệp yếu dần, cung với đó là sự tàn phá của

thiên tai, mất mùa liên tiếp xảy ra. Bộ phận thuộc sở hữu nhà nứơc ngày càng

thu hẹp dần, từng bước nhường chỗ chochế độ sở hữu tưi nhân.



39



Chính sách ruộng đất thời Lê sơ (1428-1527)



Vũ Thị Khánh Linh



PHẦN III

VAI TRÒ, TÁC DỤNG CỦA CHÍNH SÁCH RUỘNG ĐẤT

CỦA NHÀ LÊ SƠ

1. Vai trò của chính sách ruộng đất của nhà Lê Sơ

Chính sách ruộng đất của nhà Lê Sơn nói chung là sản phẩm của nhà

nước tập quyền với chế độ phong kiến Trung Hoa, lấy hệ tư tuởng Nho giáo

làm tư tưởng chính thống trong xã hội, nhà nước vận hành và phát triển theo

tư tưởng đó. Bên cạnh đó, nó còn là sản phẩm chủ quan của nhà nước Lê Sơ

với hang loạt các chính sách áp dụng cho từng loại đối tượng tương ứng là các

loại ruộng đất phù hợp được ban bố và thực thi nhằm giải quyết những vấn đề

dặt ra của xã hội mà nhà nước do vua dứng đầu phải quan tâm với nghĩa vụ “

thay trời trị dân” theo quan điểm Nho giáo. Chính sách ruộng đất của nhà Lê

Sơ về cơ bản có lien quan trực tiếp đến đời sống nhân dân, trứoc hết nhằm

giải quyết vấn đề “dân cày” cho nông dân, sau nữa là ổn định tình hình kinh tế

xã hội đât nước, đưa đất nước ngày càng phát triển.

Hẩu hết các chính sách được đặt ra dưới thời Lê là do vua Lê Thái Tổ “đặt

viên gạch đầu tiên, được hoàn thiện ở các triều đạt vua nối nghiệp”, kế tục ,

bổ sung và hoàn thiện, nhất là dưới thời Lê Thánh Tông - vị vua đã đưa nhà

Lê sơ phát triển thịnh đạt nhất. Nội dung các chính sách về sau về cơ bản

không thay đổi nhiều lắm, có khác chăng chỉ là ở mức độ.

Về chính sách quân cấp ruộng đất, bước đầu còn hạn chế cho đến thời Lê

Thánh Tông mới đi vào quy cũ, nề nếp và được triển khai mạnh mẽ. Vai trò

cơ bản của chính sách này là nhằm giải quyết tình trạng lãng phí ruộng đất

trong làng xã, ruộng hoang hoá không được sử dụng. Trong quá trình thực

hiện các chính sách này không tránh khỏi những hạn chế tiêu cực, nhưng xét



40



Chính sách ruộng đất thời Lê sơ (1428-1527)



Vũ Thị Khánh Linh



về một khía cạnh nào đó thì chính sách quân cấp đã hoàn thành nhiệm vụ đặt

ra của mình.

Chính sách ruộng đất của nhà Lê sơ không chỉ dừng lại ở việc ban hành các

chiếu dụ, lệnh dụ của nhà vua mà đã được quy định một cách chặt chẽ thành

luật pháp mà điển hình là bộ luật Hồng Đức, được ban bố duối thời Lê Thánh

Tông. Có thể thấy rằng pháp luật thời Lê Sơ đã quy định khá rõ rang, cụ thể

về quyền hạn, nghĩa vụ, năm tháng cấp đất và thu hồi ruộng đất… qua đó còn

thấy được nhà nước trung ương có vai trò rất to lớn với toàn bộ các chính

sách của mình.

Chính sách của nhà Lê Sơ được ban hành nhằm mục tiêu nhanh chóng ổn

định tình hình xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Mặt khăc để dảm bảo vai

trò quan trọng của nó, để các chính sách được kịp thời và phù hợp, phát huy

tác dụng tích cực trong xã hội, nhà nước Lê Sơ còn ý thức theo dõi, giám sát

việc thực hiện của các cấp của nhà nước còn mạnh thì có thể dễ dàng quản lý

đất nước, nhưng khi đất nước bất đầu có biểu hiện của sự suy yếu, sẽ nhanh

chóng dẫn đến tình trạng cát cứ, phân phong quyền lực và nhanh chóng đi đến

sụp đổ (điều này đã được lịch sử chứng minh vào giữa thế kỷ XV nhà Lê sơ

sụp đổ). Chế độ ban thưởng và phân phong ruộng đất của nhà Lê sơ cho các

công thần và quý tộc có phần rất hậu, với chính sách này nhà Lê nhà Lê sơ đã

tạo điều kiện thuận lợi cho giai cấp phong kiến mở rộng và phát triển mạnh

mẽ, song song với quá trình này là tình trạng mua bán ruộng đất diễn ra ồ ạt,

tư hữu ngà càng phát triển, phát sinh nhiều hiện tượng tieu cực trong xã hội,

gây nên tình trạng bất ổn định, đất nước phát triển vượt ra ngoài tầm kiểm

soát của nhà nước. Nhiều mâu thuẫn mới nảy sinh, đặc biệt tình tình trạng

phân hoá xã hội diễn ra ngày càng mạnh mẽ, người giàu thì càng giàu hơn còn

người nghèo và giai cấp nông dân - lực lượng sản xuất chính, nuôi sống cả xã

hội thì ngày càng bị bần cùng hoá, đời sống bấp bênh. Khi tình trạng này phát



41



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (49 trang)

×