Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (683.97 KB, 77 trang )
mà nhà máy cần đổi mới tư duy và cách thức tổ chức quản lý sao cho có sự
phối hợp một cách đồng bộ, nhịp nhàng, linh hoạt giữa công nghệ và con
người. Trong quá trình đổi mới, cần phải bảo đảm :
- Nắm vững khai thác và sử dụng triệt để những thiết bị đã có và được
bổ xung thêm
- Nghiên cứu, tiếp thu, chọn lọc và dần tìm ra các giải pháp khắc phục,
bảo dưỡng, tu sửa máy móc, thiết bị, tránh phụ thuộc quá nhiều vào đối tác
chuyển giao công nghệ.
- Đào tạo đội ngũ cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý và đội ngũ công nhân
kỹ thuật có đủ khả năng tiếp thu, đánh giá và dự đoán xu hướng phát triển của
các trang thiết bị phù hợp với yêu cầu và điều kiện thực tế, đem lại hiệu quả
cao.
2. Biện pháp bảo đảm chất lượng nguyên vật liệu :
a/ Căn cứ đề xuất giải pháp :
Nguyên vật liệu - đối tượng lao động chủ yếu trong qúa trình sản xuất- là
yếu tố cơ bản cấu thành nên sản phẩm. Do những đặc tính của sản phẩm chịu
ảnh hưởng rất lớn vào chất lượng các nguyên vật liệu đưa vào quy trình sản
xuất. NVL tốt đáp ứng đầy đủ các yêu cầu kỹ thuật cùng với một trình độ nhất
định về công nghệ, tay nghề và quản lý là cơ sở để tạo ra các sản phẩm có
chất lượng cao. Vấn đề đặt ra là phải tổ chức tốt công tác cung ứng nguyên
vật liệu trong mỗi doanh nghiệp một cách hợp lý đáp ứng nhu cầu cho sản
xuất kinh doanh về số lượng, chất lượng, thời gian và chi phí …
Đối với nhà máy bia Đông Nam Á, sản phẩm được sản xuất từ một dây
chuyền cho nên chất lượng sản phẩm có thể nói là như nhau trong một mẻ. Do
đó, việc đảm bảo chất lượng không tốt các nguyên vật liệu sẽ ảnh hưởng lớn
tới chất lượng sản phẩm cuối qui trình. Thêm vào đó, hầu hết các loại nguyên
vật liệu : Malt, Houblon, đều phải nhập từ nước ngoài, các nguyên liệu khác :
gạo và vật liệu phụ được mua trong nước. Đối với các nguyên vật liệu nhập từ
nước ngoài cần phải được xem xét cẩn thận, kiểm tra chặt chẽ về chất lượng
trước khi nhập. Các nguyên liệu trong nước cũng cần phải kiểm tra một cách
kỹ lưỡng. Việc đảm bảo chất lượng cho các nguyên liệu còn phụ thuộc vào
rất nhiều yếu tố, đặc biệt là công tác bảo quản. Vì vậy, để đảm bảo cho quá
trình sản xuất diễn ra liên tục không bị gián đoạn thì cần có lhệ thống kho dự
trữ một cách hợp lý, tránh dự trữ quá nhiều hoặc quá ít ảnh hưởng tới chi phí,
quy mô và phương tiện bảo quản.
64
b. Nội dung và điều kiện áp dụng biện pháp.
- Bảo đảm nguồn vốn lưu động cần thiết cho hoạt động mua sắm
nguyên vật liệu. Cần lập ra kế hoạch mua sắm cụ thể trên cơ sở nghiên cứu và
tính toán nhu cầu tiêu dùng và khả năng sản xuất của nhà máy trong kỳ. Từ
đó, ta có thể xác định được mức vốn lưu động sử dụng trong kỳ.
- Thiết lập đội ngũ nhân viên thu mua có trình độ, có kinh nghiệm,
trung thực am hiểu tình hình giá cả của nguyên vật liệu trên thị trường và
những yêu cầu của mỗi loại nguyên vật liệu cần mua.
- Cần phân định rõ trách nhiệm, nghĩa vụ của các phòng ban trong
công tác cung ứng nguyên vật liệu cụ thể.
+ Bộ phận cung ứng:
Lập kế hoạch tiến độ cung ứng, tính toán nguyên vật liệu cần dùng, dự
trữ và mua sắm, chi tiết đối với từng chủng loại.
Tổ chức cấp phát nguyên liệu cho các phân xưởng, bộ phận sản xuất,
thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ đối với việc cáp phát nguyên vật liệu đảm
bảo nhanh chóng, kịp thời và hiệu quả.
+ Bộ phận kỹ thuật.
Cần ban hành hệ thống các mức tiêu dùng nguyên vật liệu: Kiểm tra
kiểm soát chất lượng nguyên vật liệu trong quá trình thu mua, bảo quản và
cung ứng.
+ Phòng Tài chính:
Bảo đảm đầy đủ nguồn tài chính cho công tác thu mua, cung ứng.
Xác định rõ trách nhiệm của người thu mua, thời gian mua, chất lượng,
số lượng nguyên vật liệu sử dụng.
* Xác định khối lượng nguyên vật liệu cần mua.
- Căn cứ vào định mức tiêu dùng nguyên vật liệu và khối lượng sản
phẩm mỗi loại sẽ sản xuất trong kỳ, xác định khối lượng mỗi loại nguyên vật
liệu cần dùng theo công thức sau:
n
M td = ∑Qi * mi
i =1
Trong đó:
Mtd: Khối lượng nguyên vật liệu tiêu dùng
Qi:
Khối lượng sản phẩm loại i
mi:
Mức tiêu dùng nguyên vật liệu cho một đơn vị sản
65
phẩm loại i.
Đối với các nguyên vật liệu không có mức tiêu dùng thì được xác định
theo công thức:
n
M td = ∑M tti * %hi
i =1
Trong đó:
Mtti: Khối lượng nguyên vật liệu tiêu dùng
%hi: Phần trăm tăng giảm sản lượng so với kỳ trước của
sản phẩm loại i
- Xác định nguyên vật liệu dự trữ.
Trong nhiều trường hợp để bảo đảm cho quá trình sản xuất diễn ra liên
tục, đồng thời đáp ứng kịp thời các đơn đặt hàng của khách thì cần có một
lượng nguyên vật liệu dự trữ nhất định, nhằm phòng tránh các rủi ro trong quá
trình cung ứng:
M dt = m * Tn
Trong đó:
Mdt: Lượng nguyên vật liệu dự trữ thường xuyên
m:
Mức tiêu dùng nguyên vật liệu một ngày đêm
Tn:
Thời gian dự trữ thường xuyên
Sau khi xác định được các tiêu thức trên đây, để xác định được khối
lượng nguyên vật liệu cần mua, cần xác định được lượng nguyên vật liệu tồn
kho đầu kỳ (Ođk).
Khối lượng nguyên vật liệu cần mua được xác định theo công thức:
Mcm = Mtd + Mdt = Mtd + Ock - Ođk
Trong đó:
Mcm: Khối lượng nguyên vật liệu cần mua
Ođk: Lượng tồn kho đầu kỳ
Ock: Lượng dự trữ cuối kỳ.
Để đảm bảo chất lượng nguyên vật liệu, nhà máy Bia Đông Nam Á cần
đầu tư thêm vào hệ thống kho dự trữ, các thiết bị, công cụ sử dụng để kiểm
tra, kiểm soát chất lượng sản phẩm. Hệ thống kho cần phải bảo đảm đầy đủ
ánh sáng, nhiệt độ, thông thoáng và thuận tiện cho việc cung ứng, kiểm tra và
các hoạt động khác trong kho (đảm bảo 3 dễ: dễ thấy, dễ lấy, dễ kiểm tra).
66
3. Biện pháp về quản lý chất lượng sản phẩm.
a. Căn cứ đưa ra giải pháp.
Nếu như kỹ thuật công nghệ và nguyên vật liệu đầu vào được coi là
"phần cứng" của quá trình sản xuất, thì công tác quản lý chất lượng được coi
là "phần mềm". Quản lý chất lượng sản phẩm không dừng lại ở các khâu, các
bộ phận, cá nhân, mà nó bao gồm toàn bộ quy trình sản xuất, con người... Nếu
như công tác quản lý chất lượng được thực hiện tốt thì nó sẽ là yếu tố chính
đảm bảo cho sản phẩm có đầy đủ các đặc tính thoả mãn nhu cầu của người
tiêu dùng. Tuy nhiên việc quản lý chất lượng sản phẩm phụ thuộc rất nhiều
vào tổ chức lao động, con người, phương pháp sản xuất. Tổ chức lao động
chính là việc sắp xếp một cách có khoa học những công việc phù hợp với
từng công nhân, cán bộ nhằm đảm bảo thực hiện đúng các phương pháp sản
xuất.
Công tác quản lý chất lượng ở Nhà máy Bia Đông Nam Á đã có những
thay đổi lớn. Việc áp dụng phương pháp sản xuất mới cũng đã góp phần thực
hiện tốt công tác này. Bên cạnh những gì đạt được thì vẫn còn có những biểu
hiện cho sự lơi lỏng việc quản lý chất lượng. Sự phối hợp thiếu đồng bộ giữa
các khâu còn hạn chế, chưa chặt chẽ. Việc tổ chức lao động vẫn chưa phát
huy hết khả năng sáng tạo trong công việc của mỗi cá nhân. Các công nhân
còn chưa thực sự quan tâm nhiều đến chất lượng sản phẩm, nhiều khi họ chỉ
đảm bảo song công việc mà không chú ý tới việc có thực hiện theo đúng quy
trình hay không.
b. Nội dung và điều kiện áp dụng biện pháp.
Quản lý chất lượng cần phải thực hiện một cách đồng bộ, nhịp nhàng.
Các khâu, các bộ phận cần tự quản lý chất lượng trong khâu của mình, điều
này sẽ góp phần tạo ra một sản phẩm hoàn chỉnh tới tay người tiêu dùng. Để
quản lý chất lượng tốt, thì ngay từ khâu đầu là nghiên cứu, thiết kế sản phẩm
cho đến khi bán được hàng cần phải thực hiện một cách đầy đủ và chặt chẽ.
Các biện pháp cụ thể có thể được thực hiện trong Nhà máy Bia Đông Nam Á.
- Thay đổi cách nhìn nhận của cán bộ, công nhân viên của nhà máy về
chất lượng và quản lý chất lượng sản phẩm. Điều này cho phép kiểm tra, đánh
giá chính xác về sản phẩm, mức độ cho phép và nguyên nhân dẫn đến sự sai
sót của sản phẩm.
- Thiết lập hệ thống các chỉ tiêu chất lượng cho từng khâu, từng bộ
phận. Đây là căn cứ để xác định sự phù hợp của sản phẩm theo thiết kế, công
67
thức sản xuất. Là cơ sở cho việc tăng cường kiểm tra, giám sát các bộ phận,
các khâu trong quy trình sản xuất.
- Tổ chức tốt công tác quản lý chất lượng thông qua việc thành lập các
nhóm chất lượng trong từng khâu, từng giai đoạn công việc. Nhóm chất lượng
là một nhóm người lao động cùng làm công việc giống nhau một cách đều
đặn và tự nguyện nhằm xác minh phân tích và giải quyết các vấn đề liên quan
đến chất lượng sản phẩm hay xử lý các vấn đề trục trặc ở các công đoạn, quá
trình chế tạo, chế biến sản phẩm. Mỗi nhóm được thành lập từ 3 - 15 người
tham gia một cách tự nguyện bao gồm: Các thành viên, người lãnh đạo, người
hỗ trợ hoặc điều phối và ban quản lý. Hoạt động của nhóm chất lượng được
thực hiện một cách đều đặn tập trung vào việc xác minh phân tích, giải quyết
những vấn đề có liên quan đến công tác và đề xuất, kiến nghị những giải pháp
cho ban quản lý, hoặc tự thực hiện các giải pháp nếu điều kiện có thể. Điều
này cho phép giảm tỷ lệ phế phẩm ở các công đoạn sản xuất đồng thời thúc
đẩy cải tiến kỹ thuật, quy trình công nghệ, nâng cao được chất lượng sản
phẩm, trong khi chi phí bỏ ra để đào tạo kiến thức cho nhóm chất lượng là
không đáng kể, mà lại làm tăng doanh thu cho nhà máy từ việc nâng cao tỷ lệ
chính phẩm (thường là 0,5%).
Giả sử mỗi nhóm có khoảng 7 - 8 người, chi phí đào tạo lại 1 lần thì
tổng chi cho nhóm sẽ khoảng từ 25 đến 30 triệu đồng. Trong khi đó, doanh
thu dự kiến năm tới là 523.073.120 nghìn đồng. Như vậy, nếu thành lập nhóm
thì doanh thu sẽ tăng lên đạt 536.743.485,6 nghìn đồng. Như vậy, ta sẽ thấy
được tác dụng của biện pháp là rất lớn, không những doanh thu của doanh
nghiệp tăng lên mà chất lượng sản phẩm được nâng cao cũng là điều kiện
đảm bảo cho nhà máy nâng cao cũng là điều kiện đảm bảo cho nhà máy nâng
cao uy tín, tạo lòng tin đối với khách hàng, có điều kiện nâng cao mức sống
cho công nhân viên trong nhà máy.
4. Biện pháp về nhân sự.
a. Căn cứ đưa ra giải pháp.
Con người là chủ thể của một quá trình, hoạt động kinh tế - xã hội, là
nhân tố cơ bản quyết định sự thành bại, được và không được, tốt hay xấu...
của một hoạt động, hay một thực thể nào đó. Đào tạo và bồi dưỡng cho người
lao động chính là cơ sở để thực hiện chiến lược "Phát huy nhân tố con người
trong sản xuất" của Đảng và Nhà nước đề ra. Trong doanh nghiệp, lao động
68
và chất lượng lao động được xem là nhân tố cơ bản quyết định trực tiếp đến
chất lượng sản phẩm. Do vậy, để chất lượng sản phẩm được nâng cao, cần
phải nâng cao được chất lượng lao động. Công việc đào tạo và bồi dưỡng cần
phải được thực hiện một cách thường xuyên, phù hợp với các yêu cầu công
việc cụ thể.
Đội ngũ cán bộ, đặc biệt là cán bộ kỹ thuật là lực lượng quan trọng
hàng đầu quyết định đến chất lượng sản phẩm và hiêụ quả sản xuất kinh
doanh của Nhà máy Bia Đông Nam Á. Bên cạnh đó, đội ngũ cán bộ công
nhân viên cũng có những ảnh hưởng không nhỏ tới việc đảm bảo chất lượng
sản phẩm. Tỷ lệ bình quân bậc thợ 4/7 có thể đánh giá là tương đối cao so với
"mặt bằng" của các công nhân lao động. Tuy nhiên, số lượng người có trình
độ cao chưa nhiều chỉ mới chiếm trên 10%. Phòng KCS - kiểm tra chất lượng
sản phẩm của nhà máy gồm 8 người trong đó có một chuyên gia nước ngoài
phụ trách khâu kiểm tra chất lượng sản phẩm và nghiệm thu sản phẩm. Nói
chung, nhân sự trong nhà máy có trình độ tương đối đồng đều, đặc biệt là lao
động trực tiếp. Tuy vậy, vẫn có những biểu hiện của sự yếu kém về năng lực
công tác, đặc biệt là về quản lý chất lượng. Do đó, vẫn còn có những phế
phẩm mặc dù rất nhỏ, không đáng kể.
b. Nội dung và điều kiện áp dụng biện pháp.
Với đội ngũ công nhân sản xuất trực tiếp tương đối cao thì trình độ
nhận thức và tay nghề có ảnh hưởng lớn tới chất lượng sản phẩm. Đào tạo và
giáo dục là biện pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng lực lượng lao động này.
Đào tạo là quá trình trang bị kiến thức, kỹ năng giúp người lao động thực hiện
các chức năng và nhiệm vụ một cách tự giác và có am hiểu hơn về công việc
của họ. Giáo dục là biện pháp tác động về mặt tâm lý, tinh thần nhằm nâng
cao ý thức kỷ luật lao động, thái độ làm việc và trách nhiệm trong công việc.
Để công tác giáo dục đào tạo có hiệu quả nhà máy cần lập kế hoạch đào tạo
trên cơ sở đánh giá laị thực trạng đội ngũ cán bộ, công nhân viên và yêu cầu
của các công việc cụ thể cho từng người, từng bộ phận trong nhà máy.
* Các hình thức:
- Mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn, gửi đi học ở các lớp, trường quản lý,
kỹ thuật...
69
- Tuyên truyền và tập huấn bởi các chuyên gia nhằm vận động người
lao động thực hiện tốt quy chế và kỷ luật lao động, cần xử lý nghiêm các vi
phạm.
- Xây dựng tác phong làm việc theo phương pháp hiện đại, xoá bỏ lề lối
làm việc cũ.
* Nội dung:
Giáo dục đào tạo cần tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:
- Trang bị kiến thức về chuyên môn, quản lý và các phương pháp quản
lý chất lượng sản phẩm hiện đại.
- Công tác lập kế hoạch trong công ty, tiếp cận các phương pháp lập kế
hoạch mới không dừng lại ở các con số chỉ tiêu về giá trị, sản lượng sản xuất
mà cần phải bao quát cả hiệu quả sản xuất kinh doanh sau mỗi kỳ.
- Đào tạo nâng cao trình độ cho các cán bộ, lập và kiểm tra hệ thống
chất lượng sản phẩm và quản lý nó như thế nào có hiệu quả nhất. Bảo đảm
các chỉ tiêu chất lượng đưa ra phù hợp với yêu cầu thực tiễn, đáp ứng được
cạnh tranh trên thương trường, mà vẫn bảo đảm tiết kiệm, hiệu quả và thoả
mãn nhu cầu của khách hàng.
* Chi phí cho công tác giáo dục đào tạo.
- Chi đào tạo cho công nhân bình quân 1.000.000 đ/người/năm
Bao gồm:
+ Chi trả lương công nhân trong thời gian học tập.
+ Chi cho giáo viên, cán bộ đào tạo.
+ Chi cho phương tiện, công cụ giảng dạy.
+ Chi cho nhân viên tổ chức và quản lý đào tạo.
+ Chi tiền đi lại, ăn ở cho cán bộ đào tạo.
- Chi phí tăng lương theo bậc thợ.
Giả sử chi cho 50 công nhân bình quân 1 triệu đồng/người/năm và chi
tăng theo bậc thợ là 20.000 đồng/người/tháng. Doanh thu dự kiến sẽ tăng
0,5% từ hiệu quả của công tác đào tạo. Chi phí sẽ bao gồm:
+ Chi đào tạo: 50 x 1 tr.đ = 50 tr.đồng
+ Chi cho tổ chức đào tạo: 5 tr.đồng
+ Chi phí tăng lương theo bậc: 20.000 x 50 x 12 = 12 tr.đồng.
⇒ Tổng chi sẽ là 67 tr.đồng.
70
Doanh thu như đã tính ở trước là: 536.743,4856 tr.đồng.
⇒ Hiệu quả sẽ là: 2.670,3656 - 67 = 2.603,3656 triệu đồng.
Việc bồi dưỡng và đào tạo cho đội ngũ cán bộ quản lý tuy không tác
động trực tiếp đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm nhưng nó có ảnh hưởng
rất lớn tới việc cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm sau này. Thêm vào
đó, nó góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh của toàn công ty, nâng cao
năng lực cạnh tranh và vị thế của công ty trên thị trường.
Để đánh giá công tác giáo dục đào tạo cần thường xuyên kiểm tra chất
lượng, tay nghề của công nhân viên thông qua các cuộc thi tay nghề nhằm
tăng tính đoàn kết, học hỏi lẫn nhau. Song song với đó, cần có những hỗ trợ
của các phòng ban trong công ty. Bên cạnh đó, cần có chế độ khen thưởng,
phạt, động viên kịp thời đối với người thực hiện và nhằm nâng cao ý thức
trách nhiệm và kỷ luật lao động của người thực hiện. Các cán bộ lãnh đạo cần
quan tâm hơn nữa, đi sâu tìm hiểu tâm lý của từng người để có thể tổ chức sắp
xếp các công việc phù hợp với năng lực của từng người, khuyến khích sự
sáng tạo của họ trong công việc.
KẾT LUẬN
Chất lượng sản phẩm là một phạm trù kinh tế- kỹ thuật phức tạp chịu
ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác nhau. Tuy nhiên, đây là yếu tố quan trọng
tác động không chỉ tới quá trình tiêu thụ sản phẩm, mà nó còn có ý nghĩa
quyết định tới sự tồn tại và phát triển của nhiều doanh nghiệp trong cơ chế thị
trường.
Vấn đề đặt ra cho các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, đặc biệt là khi
Việt Nam tham gia các khối kinh tế trong khu vực và trên thế giới đó là đổi
mới nhận thức về chất lượng sản phẩm và quá trình quản lý chất lượng sản
phẩm. Tuy nhiên, qúa trình thay đổi nhận thức về quản lý chất lượng sản
phẩm không phải dễ dàng giải quyết được. Nó đòi hỏi phải có sự đầu tư thích
đáng không chỉ trong việc cải tiến, mua sắm thiết bị máy móc mà còn cả trong
đầu tư, đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao nhận thức và năng lực chuyên môn của
71
cán bộ, công nhân viên. Việc nâng cao chất lượng sản phẩm trong một doanh
nghiệp cần phải có sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng từ cấp lãnh đạo, quản lý
cho tới các công nhân viên của Nhà máy. Không chỉ dừng lại ở phạm vu
doanh nghiệp các cơ quan, các bộ ngành và các chính sách kinh tế của Nhà
nước cần phải phối hợp, hỗ trợ và động viên được các doanh nghiệp nâng cao
chất lượng sản phẩm của mình.
Để đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế, các doanh nghiệp Việt Nam
cần phải hết sức khẩn trương tìm tòi, nghiên cứu để tìm ra hướng đi riêng cho
chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp mình. Thông qua đổi mới chuyển giao
công nghệ, tiến bộ khoa học kỹ thuật, đổi mới công tác quản lý, nâng cao
trình độ tay nghề lao động... chúng ta tin tưởng rằng, trong tương lai không xa
các doanh nghiệp Việt Nam sẽ đưa ra các sản phẩm có mẫu mã đẹp, chất
lượng cao, giá cả hợp lý được người tiêu dùng chấp nhận, đồng thời có khả
năng cạnh tranh với các loại hàng nhập ngoại.
Qua thời gian nghiên cứu và tìm hiểu tại Nhà máy bia Đông Nam Á đã
giúp em rất nhiều trong việc làm sáng tỏ những lý luận đã được trang bị tại
HỘI ĐỒNG QUẢN TRỊ
trường. Cùng với kiến thức lý luận cộng với cơ sở thực tiễn tại Nhà máy, em
đã mạnh dạn đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao và hoàn thiện sản phẩm
của Nhà máy. Hy vọng, sẽ góp một GIÁMnhỏ của mình trong việc hoàn thiện
TỔNG phần ĐỐC
sản phẩm của Nhà máy. Lời cuối cho em bày tỏ lời cảm ơn tới các thầy, cô
cũng như các cán bộ của Nhà máy đã giúp emĐỐC thành bài viết này.
PHÓ TỔNG GIÁM hoàn
Giám đốc
kỹ thuật
Giám đốc
marketing
Giám đốc
tài chính
Giám đốc
nhân sự
PHỤ LỤC 1: SƠ ĐỒ BỘ MÁY QUẢN LÝ NHÀ MÁY
P. tài
chính
p. hành
chính
p. kỹ thuật
p. marketing
p.KCS
kho hàng
qc
p. tổ chức
p. xnk
p. bán
hàng
p. y tế
px đóng gói
p. bảo vệ
px. công nghệ
72
px. cơ
NGUYÊN LIỆU
XAY
NƯỚC ĐÃ XỬ
LÝ
NẤU
ĐƯỜNG HOÁ
LỌC ÉP
HOA HOUBLON
BÃ HÈM
ĐUN SÔI
LẮNG
XÁC HOA
LÀM LẠNH
LÊN MEN
THU HỒI CO2
LỌC BIA LÀM
LẠNH
TẠP CHẤT
;svmjk
NẠP CO2
PHỤ LỤC 2: SƠ ĐỒ QUY TRÌNH CÔNG NGHỆ SẢN XUẤT BIA
BIA TƯƠI
RỬA LON
NƯỚC ĐÃ XỬ LÝ 1
LẦN
CHIẾT ION
CHIẾT CHAI
GHÉP NẮP
GHÉP MÍ ĐÓNG
NẮP
THANH TRÙNG
THANH TRÙNG
KTRA ĐỘ DÀY
ĐÓNG HỘP
RỬA CHAI
KTRA ĐỘ DÀY
73
DÁN NHÃN
ĐÓNG KÉT
NƯỚC ĐÃ XỬ LÝ 1
LẦN