Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.11 MB, 83 trang )
6
lớn. Động mạch cấp máu cho các cơ đùi bởi hai nhánh lớn là động mạch mũ
đùi trong và động mạch mũ đùi ngoài, và các nhánh xiên.
Ở ngang mức ống cơ khép, các nhánh tận của động mạch đùi sâu nối với các
nhánh của động mạch đùi nông tạo thành tuần hoàn bàng hệ, điều này rất
quan trọng trong tắc động mạch đùi ở trên ống cơ khép[6],[10],[12],[13].
- Động mạch đùi nông:
Chạy tiếp theo động mạch đùi chung ở dưới dây chằng bẹn khoảng
4cm, động mạch chạy theo trục của động mạch đùi chung tới lỗ gân cơ khép
thì đổi tên thành động mạch khoeo. Đường định hướng là đường kẻ nối điểm
giữa dây chằng bẹn với bờ sau lồi cầu trong xương đùi.
Chỗ nối đùi khoeo có thể bị ép bởi vòng gân cơ khép tạo điều kiện
thuận lợi cho các mảng xơ vữa hình thành. Đường kính động mạch đùi nông
đoạn gần là 0,6cm, đoạn xa là 0,54cm [6],[10],[12],[13].
- Động mạch khoeo:
Chạy tiếp theo động mạch đùi nông, bắt đầu từ lỗ gân cơ khép tới bờ
dưới cơ khoeo thì chia làm hai nhánh tận là động mạch chày trước và thân
chày mác.
Ở khoeo động mạch nằm sâu nhất và trong nhất rồi tới tĩnh mạch
khoeo, thần kinh chày nằm nông nhất và ngoài nhất. Lúc đầu động mạch nằm
ở sâu theo trục lớn của hõm khoeo, chạy chéo dần xuống dưới và ra ngoài ở
đoạn 1/3 trên, và chạy thẳng xuống dưới ở đoạn 2/3 dưới.
Ở vùng gối nó cho một số nhánh nhỏ, các nhánh này nối với nhau và
nối với các nhánh của động mạch chày trước và chày sau tạo thành vòng nối
quanh khớp gối và xương bánh chè [6],[10],[12],[13].
7
1.1.3 Vùng dưới khoeo:
Động mạch khoeo
Động mạch mác
Động mạch chày trước
Động mạch chày sau
Hình 1.3: Giải phẫu điện quang mức cẳng chân
- Động mạch chày trước:
Là một trong hai nhánh tận của động mạch khoeo, bắt đầu từ bờ dưới
cơ khoeo, động mạch đi qua bờ trên màng gian cốt ra khu cẳng chân trước và
tiếp tục đi xuống dưới giữa các cơ vùng cẳng chân trước theo một đường định
hướng nối hõm chỏm xương mác tới điểm giữa mặt trước. Sau khi chui qua
mạc hãm các gân duỗi, động mạch đổi tên thành động mạch mu chân.
Nhánh tận thứ hai của động mạch khoeo được gọi là thân chày mác
[6],[10],[12],[13].
- Động mạch chày sau:
Là nhánh tận lớn nhất tách ra từ thân chày mác, động mạch chạy xuống
dưới và vào trong đi xuống qua khu cẳng chân sau theo trục của động mạch
8
khoeo. Đến rãnh gân cơ gấp ngón cái dài thì tận cùng bằng cách chia làm hai
nhánh tận là động mạch gan chân trong và ngoài.
Động mạch chày sau nối với động mạch chày trước và động mạch mác
tạo thành vòng nối quanh mắt cá trong và ngoài. Ngoài ra các nhánh tận của
động mạch chày sau còn nối với các nhánh tận của động mạch mu chân tạo
thành cung động mạch vùng mu chân [6],[10],[12],[13].
- Động mạch mác:
Tách ra từ thân chày mác ở 2-3cm dưới cơ khoeo, động mạch chạy
xuống dưới và ra khu cẳng chân ngoài song song với động mạch chày sau.
Tới khớp chày mác ở cổ chân động mạch tận hết bằng cách cho các nhánh tận
tới cổ chân và gót [6],[10],[12],[13].
1.2
Triệu chứng lâm sàng và các nguyên nhân gây hẹp, tắc động mạch
chi dưới:
1.2.1 Triệu chứng lâm sàng của hẹp tắc động mạch chi dưới:
1.2.1.1
Triệu chứng cơ năng:
Cơn đau cách hồi [3],[7],[16]: Đây là những cơn đau vùng hạ lưu vùng
tổn thương, có tính chất bó chặt chân lại như chuột rút khi bệnh nhân đi được
một quãng đường nhất định, làm bệnh nhân không thể đi tiếp được mà phải
dừng lại để nghỉ. Thời gian đầu đi được quãng đường dài hơn và nghỉ ít hơn,
về sau đi được quãng đường ngắn hơn và phải nghỉ dài hơn. Triệu chứng xuất
hiện tại hông, đùi là tổn thương tại động mạch chủ chậu, xuất hiện tại bắp
chân là tổn thương tại đùi hoặc khoeo.
Mỏi hai chân [7],[16]: Thường xảy ra ở giai đoạn đầu, và thường là dấu
hiệu báo hiệu của đau cách hồi.
Cảm giác lạnh chân [7],[16]: Thường chỉ có giá trị khi nó xuất hiện ở
một bên và da bên đó bị tái nhợt đi.
9
Giai đoạn nặng có thể thấy loét, hoại tử chân, thường lan từ phần ngọn
là các đầu ngón chân vào bàn chân [7],[16].
1.2.1.2
Triệu chứng thực thể:
Nhìn: Da chân bị nhợt nhạt ở một vùng hoặc ở bàn chân, rõ hơn khi
bệnh nhân đưa chân lên cao, giảm đi khi bệnh nhân hạ thõng xuống thấp.
Móng chân có thể bị khô, lông nơi đó bị rụng, có thể teo cơ. Đôi khi có thể có
những vết loét do rối loạn dinh dưỡng hay hoại tử đầu chi [7],[16].
Sờ: Thấy da chân lạnh. Phải sờ từ đầu ngón trở đi và sờ nhiều vùng.
Mạch không đập hoặc đập yếu hơn bên lành. Khi xem mạch phải kiểm tra tất
các các hệ thống mạch của chi và phải so sánh hai bên [7],[16].
Nghe: Có thể thấy tiếng thổi tại vị trí động mạch bị hẹp [7],[16].
1.2.1.3
Phân loại lâm sàng của Leriche và Fontaine:
Hiện nay, phân loại của Leriche và Fontaine vẫn còn nguyên giá trị trên
lâm sàng trong việc đánh giá mức độ hẹp, tắc của động mạch chi dưới. Các
tác giả chia thành các giai đoạn [3],[13]:
Giai đoạn 1: Không đau, mạch đập yếu hoặc không thấy đập
Giai đoạn 2: Đau khi vận động gắng sức
2a: Đau khi đi bộ trên 100m
2b: Đau khi đi bộ dưới 100m
Giai đoạn 3: Đau cả khi nghỉ ngơi
Giai đoạn 4: Đau liên tục kèm theo có loét, hoại tử
1.2.2 Các nguyên nhân và yếu tố nguy cơ gây hẹp, tắc động mạch chi dưới:
Hẹp, tắc động mạch chi dưới có thể cấp tính do huyết khối hình thành
tại chỗ trên nền các bệnh lý động mạch mạn tính, cũng có thể do huyết khối từ
nới khác di chuyển tới trong các bệnh lý khác như tim mạch. Trong phạm vi
nghiên cứu của đề tài này chúng tôi chỉ đề cập đến ba nguyên nhân chính là
xơ vữa động mạch, đái tháo đường và viêm mạch huyết khối tắc nghẽn (hay
10
bệnh Buerger). Ngoài ra còn có các nguyên nhân hiếm gặp khác như bệnh tạo
keo, viêm động mạch do nhiễm khuẩn, tăng huyết áp, tăng độ nhớt và tăng
đông máu, hút thuốc lá,...[3],[24].
- Hút thuốc lá:
Mối liên hệ này đã được thừa nhận từ những năm 1911,trong nghiên
cứu của Erb đã chỉ ra rằng bệnh nhân hút thuốc lá có tỷ lệ xuất hiện đau cách
hồi tăng gấp 3 lần so với bệnh nhân không hút thuốc lá, mối liên quan giữa
hút thuốc lá và bệnh động mạch chi dưới thậm chí còn rõ ràng hơn so với
bệnh động mạch vành. Hơn nữa tuổi trung bình được chẩn đoán bệnh động
mạch chi dưới ở nhóm hút thuốc lá còn sớm hơn đến cả một thập kỷ so với
nhóm không hút thuốc [13],[24],[44].
Kết quả từ nghiên cứu Edinburgh Artery Study cũng chỉ ra rằng nguy
cơ xuất hiện đau cách hồi ở nhóm hút thuốc nhiều và nhóm hút thuốc ít (dưới
5 năm) so với nhóm không hút thuốc lá có tỷ lệ tương ứng là 3,7 và 3:1
[32],[44].
- Xơ vữa động mạch:
Theo định nghĩa của tổ chức Y tế thế giới đưa ra năm 1958, xơ vữa
động mạch là sự phối hợp của nhiều thay đổi ở lớp nội mạc của các động
mạch có kích thước lớn và trung bình. Những thay đổi này bao gồm sự tích
lũy tại chỗ của Lipid, các phức hợp glucid, máu và các sản phẩm của máu, tổ
chức xơ và lắng đọng canxi. Kèm theo các tổn thương trên là sự thay đổi của
lớp áo giữa [7],[13],[24],[44].
Bệnh sinh của xơ vữa động mạch phụ thuộc vào hàng loạt quá trình xảy
ra do sự tương tác giữa các thành phần của máu với thành động mạch và mỗi
quá trình được biến đổi bởi các yếu tố nguy cơ khác nhau. Hậu quả là tạo nên
các mảng xơ vữa. Việc hình thành các mảng xơ vữa có thể tiến triển trong
nhiều năm, thậm chí là nhiều chục năm [7],[13],[24],[44].
11
Về mặt đại thể mảng xơ vữa có màu trắng đục hoặc vàng nhạt lồi vào
trong lòng mạch. Ở giai đoạn muộn các mảng này có thể rất cứng và canxi
hóa [7],[13],[24],[44].
Về mặt tổ chức học, mảng xơ vữa là sự dày lên khu trú của lớp nội
mạc, bao gồm hai thành phần chính: ở giữa là tổ chức, xung quanh được bao
bọc bởi tổ chức xơ và tế bào.
Các yếu tố nguy cơ của xơ vữa động mạch bao gồm tăng lipoprotein
máu, tăng huyết áp, nghiện thuốc lá, đái tháo đường và các yếu tố gia đình.
Xơ vữa động mạch chi dưới gặp ở nam nhiều hơn nữ, độ tuổi trung
bình hay gặp từ 50-70. Các vị trí hay gặp thường là các vị trí phân chia của
động mạch, vị trí có thay đổi khẩu kính hay hướng dòng chảy đột ngột như
trong ống cơ khép của động mạch đùi [7],[13],[24],[44].
- Đái tháo đường:
Theo định nghĩa của tổ chức Y tế thế giới năm 1981: Đái tháo đường là
tình trạng tăng đường huyết thường xuyên dưới tác động của nhiều yếu tố
ngoại sinh và di truyền [13],[24],[31],[44].
Bệnh thường gặp ở những người béo phì. Tỷ lệ bệnh tăng theo tuổi và
gặp nhiều hơn ở những nước công nghiệp phát triển. Do rối loạn chuyển hóa
đường kéo theo những rối loạn chuyển hóa mỡ.
Đái tháo đường là một bệnh, đồng thời cũng là một yếu tố nguy cơ của
xơ vữa mạch. Bệnh động mạch chi dưới là một biến chứng thông thường của
đái tháo đường. Theo một nghiên cứu của Phần Lan trên những người bị đái
tháo đường tuổi từ 30-59 cho thấy tỷ lệ mắc bệnh toàn bộ của bệnh động
mạch cao gấp 3,4 lần ở nam và 5,7 lần ở nữ so với nhóm chứng
[13],[24],[31],[44].
Nguy cơ cắt cụt chi ở bệnh nhân bị đái tháo đường cao hơn từ 15-46 lần
so với những bệnh nhân không bị đái tháo đường, tổn thương thường xuất
12
hiện sớm hơn, hay gặp hơn và nặng hơn. Cơ chế tổn thương là tắc mạch do xơ
vữa động mạch ở các động mạch vừa và nhỏ lẫn rối loạn nuôi dưỡng ở các
mao mạch nuôi dưỡng mạch máu rồi gây nên tắc mạch [13],[24],[31],[44].
-
Bệnh viêm mạch huyết khối tắc nghẽn hay còn gọi là bệnh Buerger:
Bệnh được Leo-Buerger mô tả đầy đủ năm 1908 được gọi là hội chứng
viêm mạch huyết khối tắc nghẽn bởi vì hình ảnh mô bệnh học được đặc trưng
bởi huyết khối cả động mạch lẫn tĩnh mạch kết hợp với các phản ứng viêm
đáng kể [3],[13],[43].
Biểu hiện lâm sàng trước tiên của bệnh thường xuất hiện ở tuổi 25 đến
40. Nguyên nhân chưa được rõ nhưng hút thuốc lá là yếu tố căn nguyên quan
trọng của bệnh. Tổn thương có thể gặp ở cả chi trên và chi dưới nhưng ở chi
dưới thường gặp và nặng hơn chi trên [3],[13],[43].
Bệnh chiếm dưới 1% trong các bệnh nhân thiếu máu ngoại vi ở Hoa
Kỳ. Ở Israel và Đông Âu là 5% trong khi ở nhật là 16%. Bệnh gặp nhiều hơn
ở châu Á [3],[13],[43].
Tổn thương là những ổ hoặc đoạn viêm nhưng không lan tỏa, thường
bắt đầu ở các động mạch nhỏ và nhỡ như động mạch chày sau, động mạch
mác, động mạch quay, động mạch trụ và các động mạch ở ngọn chi. Các động
mạch lớn hơn chỉ bị ảnh hưởng khi bệnh ở giai đoạn tiến triển. Tĩnh mạch ít
bị tổn thương hơn động mạch. Lúc đầu tổn thương viêm kết hợp với huyết
khối, sau huyết khối được tổ chức hóa gây nên tắc mạch và hậu quả là thiếu
máu chi [3],[13],[43].
-
Tuổi và giới:
Trong phần lớn các nghiên cứu, bệnh động mạch chi dưới thường xuất
hiện muộn vào khoảng 50-60 tuổi, đây là tổn thương mang tính chất mạn tính
và thường liên quan mật thiết đến quá trình hình thành mảng xơ vữa. Trong
13
vòng 50 năm trở lại đây, bệnh có vẻ xuất hiện ở độ tuổi sớm hơn, trước 50
tuổi [3].
Trong hầu hết các nghiên cứu, nam giới luôn có tỷ lệ mắc bệnh nhiều
hơn nữ, nhưng sau tuổi 50, tỷ lệ này giảm đi rõ rệt, có lẽ do vai trò của
hormone. Một lý do nữa lý giải là nam giới thường tiếp xúc với nhiều yếu tố
nguy cơ hơn như là hút thuốc lá,..[3].
1.3. Các phương pháp chẩn đoán hình ảnh áp dụng trong chẩn đoán,
đánh giá tình trạng hẹp, tắc động mạch và nguyên nhân:
Có rất nhiều phương pháp chẩn đoán hình ảnh xác định vị trí tổn
thương động mạch chi dưới cũng như đánh giá nguyên nhân như siêu âm
Triplex, chụp cộng hưởng từ mạch máu, chụp CLVT động mạch, chụp động
mạch chi dưới (DSA), chụp xạ hình động mạch.
1.3.1 Chụp mạch bằng cộng hưởng từ:
Phác thảo được cây động mạch chi dưới, có thể xác định được vị trí và
mức độ chỗ hẹp nhưng đòi hỏi phải chụp ở những máy cấu hình cao (1.5Tesla
trở lên). Mặt khác thời gian chụp lâu hơn, và khả năng đánh giá những mảng
xơ vữa lớn kém hơn CLVT[35].
Một điểm yếu của chụp MRI mạch máu nữa là nó có chỉ định hạn chế
hơn, nhiều chống chỉ định hơn, đặc biệt là các bệnh nhân nặng mà có các
phương tiện hỗ trợ bệnh nhân kèm theo như bơm tiêm điện, monitor, máy tạo
nhịp tim,… [35].
14
Hình 1.4: Hình ảnh chụp cây động mạch chi dưới từ động mạch chủ bụng
xuống đến ngọn chi trên máy chụp MRI 3.0 Tesla. Ta có thể nhìn thấy
nhiều vị trí hẹp của động mạch đùi và cẳng chân[33]
1.3.2 Chụp động mạch chi dưới:
Là một phương pháp cho phép chẩn đoán hình thái, khẩu kính, tính
chất lưu thông, tình trạng của thành mạch, hình ảnh của tuần hoàn phụ và mức
độ lan rộng của tổn thương, có thể coi đây là tiêu chuẩn vàng trong chẩn đoán