Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.01 MB, 112 trang )
Luận văn Thạc Sĩ
16
Ngành: Kinh Tế TNTN & MT
các cơ chế quản lý và sử dụng nói chung và cơ chế quản lý tài chính nói riêng
ở các khâu của quá trình đầu tư ở cả tầm vĩ mô và vi mô.
- Trên góc độ quản lý vĩ mô: để hoạt động đầu tư có hiệu quả cần có chiến
lược đầu tư dài hạn đúng và ổn định. Trên cơ sở đó có quy hoạch hợp lý (quy
hoạch tổng thể, quy hoạch ngành, quy hoạch vùng, quy hoạch đô thị và nông
thôn, quy hoạch xây dựng) phù hợp với đặc điểm, điều kiện tự nhiên, kinh tế xã hội của đất nước. Căn cứ vào quy hoạch được phê duyệt để xác định bước
đi phù hợp với mục tiêu chiến lược để sắp xếp, bố trí kế hoạch đầu tư cho các
dự án theo ngành và theo vùng đảm bảo cân đối, hợp lý với khả năng vốn cho
phép. Chất lượng và hiệu quả các nội dung trên phụ thuộc nhiều vào việc xác
định quyền hạn, trách nhiệm các cấp, các ngành, các tổ chức, cá nhân từ
Trung ương đến địa phương trong việc tạo ra các quyết định liên quan đến
chủ trương đầu tư, cơ chế quản lý và điều hành hoạt động đầu tư như: huy
động vốn đầu tư; thẩm định và ra quyết định đầu tư; phê duyệt thiết kế và
tổng dự toán, dự toán; phân cấp và kế hoạch; cơ chế giao thầu, giải ngân và
quyết toán đảm bảo thống nhất.
- Trên góc độ quản lý vi mô: hiệu quả hoạt động đầu tư được quyết định
bởi công tác quản lý cụ thể trong từng khâu quản lý và nghiệp vụ quản lý. Để
nâng cao hiệu quả hoạt động đầu tư ở cấp vi mô cần phân định rõ trách nhiệm
(nhiệm vụ và nội dung công việc, giới hạn công việc, trách nhiệm và quyền
hạn) từng khâu công tác. Trên cơ sở đó đề ra các biện pháp quản lý cụ thể cho
từng khâu để thực hiện các mục tiêu cụ thể, mối quan hệ phối kết hợp giữa
các cá nhân, tập thể, tổ chức trong quá trình điều hành và quản lý vốn đầu tư
cũng như hoạt động đầu tư.
2. Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của dự án
Hiện nay, hệ thống chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sản xuất kinh doanh đang
được các cấp, các ngành đặc biệt chú ý, trên bình diện quốc gia nó còn là
những chỉ tiêu phản ánh lợi thế của mỗi quốc gia nhằm phản ánh khả năng
Học viên: Nguyễn Thị Hoa
Lớp: CH17KT
Luận văn Thạc Sĩ
17
Ngành: Kinh Tế TNTN & MT
cạnh tranh về kinh tế cũng như thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Trong các
nhân tố tác động tới tăng trưởng kinh tế (lao động, vốn, tài nguyên thiên
nhiên, công nghệ,…) ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay thì yếu tố vốn
được coi là nhân tố quan trọng nhất.
Các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả kinh tế của đầu tư thường được biểu hiện
qua các chỉ tiêu: NPV, IRR, B/C
Để đánh giá hiệu quả kinh tế, tài chính của một dự án đầu tư người ta
thường sử dụng một số hệ thống các chỉ tiêu sau đây:
+ Chỉ tiêu thời gian thu hồi vốn đầu tư: là quãng thời gian cần thiết để các
khoản thu từ dự án đầu tư (khấu hao và lợi nhuận sau thuế) đủ để bù đắp vốn
đầu tư đã bỏ ra. Có thể gọi chỉ tiêu này là thời gian cần thiết để ngân sách tự
chi trả cho chính bản thân nó.
+ Chỉ tiêu thời gian hoàn trả vốn vay: là quãng thời gian cần thiết để các
khoản thu nhập từ dự án (lợi nhuận trước thuế và lãi vay, khấu hao tài sản cố
định đủ để trả nợ vay gồm gốc và lãi).
+ Giá trị hiện tại ròng (NPV – Net Present Value): một trong những đặc
trưng của vốn đầu tư là có giá trị về mặt thời gian. Vốn đầu tư phải bỏ ra hôm
nay nhưng các khoản thu lại xảy ra trong tương lai. Do vậy, để đánh giá chính
xác hiệu quả kinh tế đầu tư, người ta thường đưa tất cả các khoản thu, chi gắn
với một dự án về cùng một thời điểm để so sánh. Thời điểm thường được
chọn là thời điểm hiện tại. Chênh lệch giữa giá trị hiện tại của các khoản thu
với giá trị hiện tại của các khoản chi gọi là giá trị hiện tại ròng. Chỉ tiêu này
đo lường trực tiếp giá trị tăng thêm do vốn đầu tư tạo ra có tính tới sự tác
động về mặt thời gian của tiền vốn, do vậy cho phép người ra quyết định đầu
tư nhìn nhận hiệu quả đầu tư chính xác hơn.
+ Tỷ suất doanh lợi nội bộ (IRR – Internal Rate of Return): tỷ suất doanh
lợi nội bộ hay còn gọi là tỷ suất hoàn vốn nội bộ, là một lãi suất đóng vai trò
như một tỷ lệ chiết khấu làm cân bằng giá trị hiện tại của các khoản thu với
Học viên: Nguyễn Thị Hoa
Lớp: CH17KT
Luận văn Thạc Sĩ
18
Ngành: Kinh Tế TNTN & MT
giá trị hiện tại của các khoản chi. Chỉ tiêu cho phép ta so sánh giữa tỷ lệ sinh
lời (đầu vào) với chi phí sử dụng vốn bình quân dự án (đầu ra), thấy được mối
liên hệ giữa việc huy động vốn và hiệu quả sử dụng vốn đầu tư.
+ Chỉ số sinh lời của vốn đầu tư: đây là một chỉ tiêu dựa vào giá trị thời
gian của tiền tệ để tính toán. Nó phản ánh một đồng giá trị hiện tại của vốn
đầu tư tạo ra mấy đồng giá trị hiện tại thu nhập thuần của dự án.
+ Phân tích độ nhạy của dự án: độ nhạy của dự án phản ánh sự biến động
của các yếu tố (vốn đầu tư, sản lượng tiêu thụ, giá cả một sản phẩm, giá thành
một sản phẩm,...) tới kết quả cuối cùng. Để xác định mức độ giao động của
yếu tố nào đó, ta cho yếu tố đó biến động còn các yếu tố khác cố định. Phân
tích độ nhạy của dự án cho biết giới hạn an toàn của dự án khi có sự biến
động của các yếu tố đầu vào và đầu ra, giúp nhà quản lý có những điều chỉnh
cần thiết trong quá trình thực hiện dự án.
+ Phân tích điểm hòa vốn: điểm hoà vốn là điểm tại đó doanh thu bằng chi
phí. Xác định điểm hoà vốn cho biết cần sản xuất và tiêu thụ một sản lượng
sản phẩm là bao nhiêu để không bị lỗ vốn. Phân tích điểm hoà vốn còn cho
biết thời gian hoà vốn, công suất hoà vốn, doanh thu hoà vốn của dự án. Dựa
vào điểm hoà vốn mà xác định được thời điểm hợp lý chấm dứt hoạt động của
dự án, khối lượng lợi nhuận đạt được cả đời dự án và còn là cơ sở để phân
tích độ nhạy của dự án.
Các phương pháp đánh giá hiệu quả trên đây thường được áp dụng đối vối
dự án đầu tư có tính chất sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp; còn đối
với các dự án đầu tư sử dụng vốn ngân sách Nhà nước thường được đánh giá
bằng hiệu quả xã hội, hoặc hiệu quả kinh tế - xã hội (như dự án đó tạo bao
nhiêu việc làm, nhờ có dự án đó có bao nhiêu người dân được hưởng lợi…)
thì khó đánh giá khi áp dụng các phương pháp trên.
Học viên: Nguyễn Thị Hoa
Lớp: CH17KT
Luận văn Thạc Sĩ
19
Ngành: Kinh Tế TNTN & MT
1.4 Các kết quả nghiên cứu ở trong nước và ngoài nước
Thuỷ năng là một nguồn năng lượng tái tạo mà thiên nhiên ban tặng cho
con người. Bằng việc xây dựng các đập ngăn nước, nhiều nhà máy thuỷ điện
đã ra đời không chỉ cung cấp nguồn năng lượng với giá rẻ, không gây ô
nhiễm môi trường như nhà máy nhiệt điện dùng than hoặc dầu mà còn mang
lại nhiều lợi ích khác cho nền kinh tế quốc dân như: Chống lũ, cấp nước cho
hạ du, phát triển du lịch, phát triển thuỷ sản... và làm thay đổi khí hậu theo
chiều hướng tốt hơn. Khi sử dụng các tiềm năng của các dòng sông, con
người không dừng lại ở mục tiêu phát triển nguồn năng lượng mà còn biến nó
thành động lực to lớn, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội. Vì lợi ích thuỷ điện
hết sức rõ ràng và to lớn đã làm cho người ta quên mất mặt trái của nó hoặc
xem nhẹ hoặc chưa hiểu đầy đủ về những hậu quả của việc phát triển thuỷ
điện.
Việc tích nước hồ chứa có thể dẫn đến hàng vạn hecta rừng bị chìm
ngập, làm mất đi không chỉ thực vật, chủ yếu là loại lưỡng cư, bò sát, sinh vật
sống trong vùng lòng hồ. Sự biến động tính đa dạng sinh học do tích nước hồ
là đương nhiên, nhưng sự biến động này sẽ còn lớn hơn rất nhiều, có thể làm
mất hàng loạt diện tích rừng, gây xói mòn, huỷ hoại môi trường, làm xáo trộn
cuộc sống của một bộ phận dân cư đang sinh sống trong vùng lòng hồ....Như
vậy những hậu quả mà thuỷ điện gây nên cũng không phải là nhỏ.
Để quyết định cho việc đầu tư phát triển một dự án phải được tính toán
kỹ lưỡng trên những mặt lợi, mặt hại mà nó mang lại hay nói cách khác là
phải ước lượng đầy đủ về chi phí và lợi ích của dự án ở góc độ toàn nền kinh
tế. Từ trước đến nay đối với các dự án xây dựng nói chung và dự án xây dựng
thuỷ điện nói riêng thì việc xác định các chi phí và lợi ích tài chính trường
được các chủ đầu tư tính toán kỹ lưỡng, nhưng các chi phí môi trường (chi
phí ngoại ứng) hầu như không được quan tâm trong phân tích hiệu quả kinh tế
Học viên: Nguyễn Thị Hoa
Lớp: CH17KT
Luận văn Thạc Sĩ
20
Ngành: Kinh Tế TNTN & MT
xã hội của dự án. Lý do chủ yếu của những hiếm khuyết này là do một số yếu
tố môi trường còn thiếu thị trường trao đổi cũng như việc xác định giá trị cho
các loại hàng hoá này còn gặp nhiều khó khăn. Điều đó dẫn đến hiệu quả kinh
tế và giá điện mà các chủ đầu tư báo cáo chưa thật sự phản ánh đúng với thế
giới thực của vấn đề.
Học viên: Nguyễn Thị Hoa
Lớp: CH17KT