Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 96 trang )
-14-
sư quân đội Hoa Kỳ (USACE) đã thi công các lô bê tông thử nghiệm ở đập
Lost Creek. Năm 1980, lần đầu tiên ở Mỹ sử dụng BTĐL để xây dựng đập
Willow Creek, bang Oregon. Đập cao 52 m, dài 543 m, khối lượng BTĐL
331.000 m3. Đến 1999, Mỹ có hàng chục công trình đập BTĐL.
Tại Canada đã thiết kế đập bê tông trọng lực kết hợp giữa bê tông
thường phía ngoài có tác dụng chống thấm, chịu xâm thực và tác động của
môi trường còn bên trong lõi đập sử dụng BTĐL, biện pháp thiết kế này đã
giảm chi phí công trình tới 20% so với thi công bê tông thường. Ở Anh,
Dunstan bắt đầu nghiên cứu tích cực trong phòng thí nghiệm về BTĐL trong
những năm 1970. Tiếp đó, Hiệp hội nghiên cứu và thông tin công nghiệp xây
dựng (CIRIA) của Anh đã tiến hành dự án nghiên cứu rộng về BTĐL có sử
dụng tro bay với hàm lượng lớn. Các kết quả nghiên cứu được đưa ra thử
nghiệm ở trạm xử lý nước Tamara - Coruwall (1976) và thử nghiệm tại công
trình đập Wimbledall (1979). Ý tưởng về sử dụng BTĐL có hàm lượng lớn
tro bay sau này được Cục khai hoang Mỹ ( USBR) sử dụng làm cơ sở cho
việc thiết kế đập Upper Stillwater cao 90m, dài 815m, khối lượng BTĐL
1.125.000m3. Đặc điểm của công nghệ BTĐL của Mỹ (thường gọi Roller
CoMPacted Concrete - RCC) là thiên về sử dụng BTĐL nghèo xi măng (hàm
lượng chất kết dính dưới 100 kg/m3). Để chống thấm cho đập, thường sử
dụng kết cấu tường bê tông thượng lưu bằng bê tông thường đúc sẵn lắp ghép
hoặc đổ tại chỗ bằng cốp pha trượt, kèm theo màng chống thấm bằng vật liệu
hữu cơ.
Các kỹ sư Nhật Bản tiến hành nghiên cứu và thi công các công trình
BTĐL muộn hơn. Năm 1974, Nhật Bản đã xây dựng kế hoạch “Nghiên cứu
hợp lý đập bê tông”, bắt đầu tiến hành nghiên cứu một cách hệ thống về
BTĐL, đã đề ra phương pháp thi công mới cho đập bê tông. Năm 1976, tiến
hành thí nghiệm hiện trường đê quai thượng lưu đập Đại Xuyên. Năm 1978,
sử dụng BTĐL cho thân đập Shimajigawa cao 89 m, dài 240 m, khối lượng
-15-
BTĐL 165.000 m3 trong tổng số 317.000 m3 của bê tông đập. Năm 1979, bắt
đầu sử dụng BTĐL cho phần tiếp giáp nền của đập Đại Xuyên. Cho đến
những năm 80 của thế kỷ 20, Nhật Bản đã xây dựng thành công hàng loạt
công trình như đập Tamagawa trên sông Tama, năm 1986 cao 72m dài 332m.
Năm 1989 Nhật Bản xây dựng đập Nunome trên sông Nunome thuộc tỉnh
Nara, đập cao 72m dài 332m …Nhật bản là nước có tốc độ phát triển BTĐL
nhanh nhất trên thế giới. Tính đến cuối năm 1992, ở Nhật đã có 30 đập BTĐL
được thi công. Đến nay Nhật Bản đã hình thành trường phái BTĐL gọi là
RCD (Roller-coMPacted dams) gồm thiết kế mặt cắt đập, tính toán thành
phần bê tông, công nghệ thi công và khống chế nhiệt độ đập. Đặc điểm của
phương pháp RCD là sử dụng kết cấu “vàng bọc bạc” [26].
Trung Quốc bắt đầu nghiên cứu ứng dụng BTĐL muộn hơn so với Mỹ
và Nhật Bản (1980). Tuy vậy việc ứng dụng công nghệ BTĐL được triển khai
với tốc độ rất nhanh. Đầu tiên là thủy điện Khang Khẩu tại tỉnh Phúc Kiến
(1986) cao 56,8m tiếp đến là Long Môn Than cao 58m, Thiên Sinh Kiều cao
61m, đập Thủy Khẩu, đập Phổ Định…Đến cuối năm 2004, đã xây dựng được
45 đập bê tông đầm lăn trong đó có 7 đập vòm, 38 đập trọng lực và 11 đập
cao trên 100m[4]. Cho tới nay Trung Quốc đã là một trong những nước phát
triển về công nghệ BTĐL. Trong thời kỳ đầu ở Trung Quốc đập được thiết kế
theo công nghệ kết hợp giữa bê tông thường và BTĐL, theo kiểu kim bọc
ngân ( lớp vỏ bọc bằng bê tông thường bao lõi đập bằng BTĐL), do ban đầu
người ta quan niệm BTĐL có khả năng chống thấm kém hơn so với bê tông
thường nếu có cùng mác cường độ nén. Nhưng hiện nay ở Trung Quốc đã
nghiên cứu và thiết kế ứng dụng cấp phối BTĐL có khả năng chống thấm cao
cho đập BTĐL. Năm 1993, Trung Quốc xây dựng thành công đập vòm Phổ
Định, cao 75m dài 196m, hoàn toàn bằng BTĐL, trong đó phía thượng lưu sử
dụng BTĐL chống thấm Dmax=40 mm thay cho bê tông thường, phía hạ lưu
sử dụng BTĐL không chống thấm Dmax=80 mm. Theo [4], tính đến 2004,
Trung Quốc có hơn 10 đập được thiết kế, thi công với công nghệ BTĐL
-16-
chống thấm. Đây là một tiến bộ kỹ thuật bao gồm hàng loạt biện pháp từ thiết
kế đến thi công xây dựng.
Về xây dựng đập trọng lực, tính đến 2005, toàn thế giới đã xây dựng
được trên dưới 300 đập BTĐL với khối lượng tổng cộng khoảng trên 90 triệu
m3 BTĐL. Hiện Trung Quốc là quốc gia đang dẫn đầu về số lượng đập BTĐL
sau đó là Hoa Kỳ, Nhật Bản và Tây Ban Nha.
Bảng 1.1. Số lượng đập BTĐL tại một số nước trên thế giới
Tên
Quốc
Gia
Số
đập
đã
xây
dựng
Thể
tích
BTĐL
Tỷ lệ
Tỷ lệ
theo theo K.
S.lượng lượng%
%
(103 m3)
Tên
Quốc
Gia
Số
đập
đã
xây
dựng
Thể
tích
BTĐL
(103
Tỷ lệ
theo
S.lượng
%
Tỷ lệ
theo K.
lượng
%
m3)
Châu Âu
Châu á
T.Quốc
57
28.275
20
30.50
Pháp
6
234
2.1
0.25
Nhật Bản
43
15.465
15.09
16.68
Hy Lạp
3
500
0.7
0.54
Kyrgystan
1
100
0.35
0.11
Italy
1
262
0.35
0.28
Thái Lan
3
5.248
1.05
5.66
Nga
1
1.200
0.35
1.29
Inđonesia
1
528
0.35
0.57
T.B. Nha
22
3.164
7.72
3.41
105
49.616
36.8
53.56
Tổng:
35
5.384
11.9
5.81
Tổng:
Nam Mỹ
Châu Phi
Argentina
1
590
0.35
0.64
Algeria
2
2.760
0.7
2.98
Brazil
36
9.440
12.63
10.18
Angola
1
757
0.35
0.82
Chile
2
2.170
0.7
2.34
Eritrea
1
187
0.35
Colombia
2
2.974
0.7
3.21
Ma Rốc
11
2.044
3.86
2.20
Mexico
6
840
2.1
0.91
Nam Phi
14
1.214
4.91
1.31
Tổng:
51
16.014
16.48
17.27
Tổng:
29
6.962
10.17
7.51
Bắc Mỹ
Châu úc
Canada
2
622
0.7
0.67
Australia
9
596
3.15
0.64
Hoa Kì
37
5.081
12.98
5.48
Khác
17
7.534
5.96
8.13
Tổng:
39
5.703
13.68
6.15
Tổng
26
92.712
-17-
Hình 1.1. Tỷ lệ áp dụng BTĐL theo các hướng khác nhau trên thế giới
1.2.2. Tình hình nghiên cứu và ứng dụng bê tông đầm lăn ở Việt Nam.
Công nghệ thi công BTĐL là công nghệ mới phát triển rất nhanh chóng
trên thế giới do tính cơ giới hóa cao, tiến độ thi công nhanh, công trình sớm
được đưa vào khai thác, hiệu quả kinh tế mang lại to lớn, chính vì vậy việc áp
dụng công nghệ BTĐL vào Việt Nam là điều cần thiết. Nó đã thu hút sự quan
tâm đặc biệt của các nhà nghiên cứu, quản lý, thiết kế, thi công các cơ quan
kỹ thuật có liên quan trực tiếp đến công tác thi công bê tông đầm lăn và các
công trình thuỷ công tại Việt Nam. Năm 1990 Viện Khoa học Thuỷ lợi đã
nghiên cứu phụ gia khoáng cho BTĐL [22]. Ngày 16 tháng 10 năm 1995 Bộ
Thuỷ lợi (cũ) ra quyết định số 1570 QĐ/QLXD phê duyệt NCKT công trình
thủy lợi Tân Giang (Ninh Thuận) thống nhất phương án công trình đầu mối là
đập bê tông trọng lực chọn phương án cao. Trên cơ sở quyết định 1570
QĐ/QLXD, HEC-1 đã tiến hành nghiên cứu thiết kế đập Tân Giang theo hai
phương án bê tông trọng lực truyền thống và bê tông trọng lực đầm lăn. Đây
là lần đầu tiên BTĐL được nghiên cứu vào công trình thực tế ở Việt Nam.
Ngày 20 tháng 9 năm 1997 Bộ Nông nghiệp và PTNT ra quyết định số 2425
NN/ĐTXD/QĐ phê duyệt đập đầu mối công trình Tân Giang là BTĐL, trong
đó sử dụng kết cấu “vàng bọc bạc”. Do nhiều lý do, khi thi công, đập Tân
-18-
Giang được điều chỉnh thành đập bê tông truyền thống và đã thi công hoàn
thành vào năm 2003. Mặc dù vậy, các kết quả nghiên cứu thiết kế đập BTĐL
Tân Giang đã tích luỹ nhiều kinh nghiệm quý báu về thiết kế đập BTĐL, sử
dụng tro bay và phụ gia [28]. Các cấp phối bê tông M15 và M20 có cốt liệu
Dmax tới 100 mm và lượng tro bay Phả Lại là 25 - 33% so với xi măng để
khống chế nứt do ứng suất nhiệt được đưa vào quy trình xây dựng đập Tân
Giang [36].
Công trình BTĐL xây dựng đầu tiên của Việt Nam là đập thuỷ điện
Pleikrông tại tỉnh KonTum với chiều cao 71m được thiết kế bởi Công ty Tư
vấn Xây dựng điện I, khởi công xây dựng năm 2003. Tiếp đó hàng loạt công
trình đập thuỷ điện được thi công và chuẩn bị xây dựng bằng BTĐL (bảng
1.6) [14,23], thủy điện Bản Vẽ với 1.2x106 m3 BTĐL, hồ chứa nước Định
Bình: 0,24x106 m3 BTĐL, công trình thủy điện Sê San 4: 0.8x106 m3, công
trình thủy điện Sơn La: 3.1 x106 m3 BTĐL, Đồng Nai 4: 1.4x106 m3, Định
Bình: 0.24x106 m3 BTĐL và sắp tới là hồ chứa nước Nước Trong, tỉnh Quảng
Ngãi. Do công nghệ BTĐL ở nước ta mới được áp dụng, nên việc thiết kế và
thi công đập BTĐL vẫn thiên về biện pháp an toàn, tức là sử dụng BTĐL bên
trong lõi đập không có hoặc có yêu cầu chống thấm thấp. Cấp phối BTĐL có
lượng chất kết dính cao hơn so với bê tông cùng loại của các đập trên thế giới.
Đập thủy điện Pleikrông, BTĐL mác M15 tuổi 180 ngày, Dmax cốt liệu 40mm,
lượng chất kết dính 290 kg (80 kg xi măng +210 kg Puzơlan). Do hàm lượng
chất kết dính lớn nên cường độ bê tông thường vượt mác yêu cầu khá nhiều từ
30-40%, mặt khác phần BTĐL được sử dụng cho lõi đập nên không yêu cầu
khả năng chống thấm. Các kết quả thí nghiệm trong phòng cho thấy BTĐL
chỉ đạt được cường độ chống thấm từ B2÷B4. Đập Định Bình tỉnh Bình Định
do Công ty Tư vấn Xây dựng thủy lợi 1 thiết kế đang được xây dựng bằng
BTĐL, tường chống thấm mác M25 W8 bằng bê tông thường, tiếp theo là lớp