Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 96 trang )
-25-
Việt Nam có nguồn PGK tự nhiên và nhân tạo rất đa dạng, có thể sử
dụng để chế tạo BTĐL. Nguồn PGK Puzơlan thiên nhiên có chất lượng tốt,
trữ lượng lớn, nằm rải rác khắp các vùng trong cả nước. Nguồn tro bay có
khối lượng khoảng 700.000 tấn/năm, được cung cấp chủ yếu từ nhà máy nhiệt
điện Phả Lại - Hải Dương và một số nhà máy nhiệt điện khác ở khu vực phía
Bắc.
1.3.4.1. PGK tự nhiên- Puzơlan
Puzơlan là vật liệu Silic hoặc Silic và Alumin, có ít hoặc không có tính
dính kết, nhưng ở dạng hạt mịn và mặt của nước, ẩm sẽ có tác dụng hóa học
với Canxihiđroxít ở nhiệt độ thường để tạo thành hợp chất có tính chất dính
kết. Puzơlan thiên nhiên nguyên khai hay qua nung phù hợp với các yêu cầu
áp dụng như một vài loại đất Diatomit, đá mảnh opan và diệp thạch, tuyp và
tro núi lửa hoặc đá bột, trong đó có loại qua nung và không qua nung, các loại
vật liệu khác yêu cầu được nung để cho các tính chất thỏa mãn như một vài
loại đất và diệp thạch.
Ở Việt Nam, PGK từ trước đến nay, Puzơlan được nghiên cứu sử dụng
chủ yếu cho sản xuất xi măng. Từ năm 1960, mỏ Puzơlan ở Sơn Tây được
phát hiện, đây là loại phún suất sau khi nung trở thành Puzơlan có độ hoạt
tính cao. Theo số liệu của các dự án quy hoạch Vật liệu xây dựng (Bộ Xây
dựng), ở nước ta hiện nay có hơn 30 mỏ Puzơlan thiên nhiên phân bố từ Bắc
vào Nam. Theo số liệu khảo sát, thăm dò, tiềm năng PGK tự nhiên ở nước ta
rất lớn. 12/30 mỏ đã khảo sát có trữ lượng trên 5 triệu tấn, nhiều nhất là ở mỏ
Pháp Cổ (71,5 triệu tấn). Mỏ đá bazan chiếm tỉ lệ nhiều nhất (18/30 mỏ). Còn
lại là các mỏ đá phiến, đá silic.
Ở miền Trung và Miền Nam nước ta tập trung hầu hết các mỏ đá
bazan, nhiều mỏ đá được khai thác sử dụng làm phụ gia cho Xi măng như
-26-
Nông Cống Thanh Hóa, Phủ Quỳ Nghệ An, Núi Voi Quảng Ngãi, Bến Tân
Đồng Nai, Mui Rùa, Núi Đất Bà Rịa.
Ở miền Bắc, các mỏ PGK hoạt tính thường là các mỏ đá Silic hoặc đá
phiến. Đá Silic chứa thành phần chủ yếu là α thạch anh, ngoài ra còn có
khoáng vật sét thuộc nhóm Mica SiO2 tự do, tồn tại trong đá chủ yếu dưới 3
dạng: canxedan (α thạch anh ẩn tinh), α thạch anh vi tinh và opal (opal hình
tròn cấu tạo tỏa tia và keo opal). Đá Silic ở dạng nguyên khai có tính Puzơlan.
Cấu trúc của đá từ xốp đến đặc tùy theo mức độ phong hóa.
Sự phân bố và tữ lượng của một số mỏ Puzoơlan ở Việt Nam được
trình bày trong bảng 1.6 dưới đâychom thấy nguồn phụ gia khoáng Puzoơlan
của nước ta là rất lớn.
-27-
Bảng 1.6: Sự phân bố, trữ lượng và chất lượng một số mỏ Puzơlan ở Việt Nam
Đánh giá theo ASTM - C618 - 94A
TT
Tên mỏ
Loại đá
gốc
Vị trí
Trữ lượng
Điều kiện
giao thông
SiO2+AL2O3+Fe2O3
(1)
(2)
(3)
(4)
(5)
(6)
(7)
(8)
(9)
(10)
SO3 W MKN
1 Đập Trung mẫu
Phiến hình
Vĩnh phúc
0.67 Triệu Tấn Thuận lợi
Đ
Đ
-
Đ
2 Mậu Thông
Phiến
Vĩnh phúc
3.2 Triệu Tấn
Thuận lợi
Đ
Đ
-
Đ
3 Núi Đanh
Phiến
Vĩnh phúc
6.1 Triệu Tấn
Thuận lợi
Đ
Đ
-
Đ
4 Xóm Chùa
Phiến
Vĩnh phúc
0.1 Triệu Tấn
Khá thuận lợi
Đ
Đ
-
Đ
5 Sơn Tây
Phiến
Hà Nội
2.7 Triệu Tấn
Thuận lợi
Đ
Đ
-
Đ
6 Thanh Trắc
Silíc
Hà Nội
0.5 Triệu Tấn
Thuận lợi
Đ
Đ
-
Đ
7 Pháp Cổ
Silíc
Hải Phòng
71.5 Triệu Tấn Thuận lợi
Đ
Đ
-
Đ
8 Cát Bà
Silíc
Hải Phòng
10 Triệu m3
Thuận lợi
Đ
Đ
-
Đ
9 Phương Nhĩ
Phiến
Hà Nam
0.55 Triệu Tấn Thuận lợi
-
-
-
-
10 Nông Cống
Bazan
Thanh Hóa
5-7 Triệu Tấn
Khá thuận lợi
Đ
Đ
-
-
11 Phủ Quỳ
Bazan
Nghệ An
5-7 Triệu Tấn
Thuận lợi
Đ
Đ
-
-
12 Núi Voi-Núi Ngang
Bazan
Quảng Ngãi
5 Triệu m3
Thuận lợi
KĐ
-
-
Đ
13 Đồng Điền
Bazan
Quảng Ngãi
2 Triệu m
3
Thuận lợi
KĐ
-
-
Đ
14 Thình Thình
Bazan
Quảng Ngãi
5 Triệu m3
Thuận lợi
KĐ
-
-
-
15 Đồng Danh
Bazan
Quảng Ngãi
2 Triệu m3
Thuận lợi
KĐ
-
-
Đ
16 Trung Sơn
Bazan
Quảng Ngãi
10 Triệu m3
Thuận lợi
KĐ
-
-
-
-28-
TT
Tên mỏ
Loại đá
gốc
Vị trí
Trữ lượng
Điều kiện
giao thông
Đánh giá theo ASTM - C618 - 94A
SiO2+AL2O3+Fe2O3
SO3 W MKN
17 Núi Mái nhà
Bazan
Phú Yên
5 Triệu m3
Trung bình
Đ
-
-
-
18 Thuận An
Bazan
Kon Tum
4 Triệu m3
Trung bình
-
-
-
-
19 Bình Long
Bazan
Bình Phước
1.04 Triệu Tấn Trung bình
KĐ
-
-
-
20 Vĩnh Tân
Bazan
Đồng Nai
35 Triệu Tấn
Thuận lợi
Đ
Đ
-
-
21 Xuân Lộc
Bazan
Đồng Nai
5 Triệu Tấn
Thuận lợi
-
-
-
-
22 Gia Quỳ (Mui Rùa)
Bazan
Bà Rịa
40.7 Triệu Tấn Thuận lợi
Đ
-
-
Đ
23 Cam Nghĩa
Bazan
Quảng Trị
1 Triệu Tấn
KĐ
-
-
-
Ghi chú Bảng (1.6)
Đ: Đạt
KĐ: Không đạt
(-): Không có số liệu nên không đánh giá được
Các mỏ từ 1-30 theo số liệu của Viện VLXD
Các mỏ từ 30-32 theo số liệu của Viện nghiên cứu Thủy Lợi Nam Bộ
Thuận lợi
-29-
1.3.4.2. PGK nhân tạo - Tro bay nhiệt điện
Tro bay là chất thải dạng mịn, là kết quả của việc đốt cháy than nghiền
hoặc than bột chứa Antra xít hoặc than chứa Bi tan, chúng thỏa mãn các yêu
cầu sử dụng, Các loại tro bay này có tính chất như Puzơlan.
Tro bay là sản phẩm của nhà máy nhiệt điện, là loại phụ gia có độ mịn
và hoạt tính rất cao. Do hình dạng và cấu trúc hình cầu của nó nên yêu cầu
dùng nước thường giảm đi.
Nguồn PGK nhân tạo ở nước ta chủ yếu nằm ở các tỉnh phía Bắc. Cụ
thể là nguồn phế phẩm của các nhà máy nhiệt điện Phả Lại, nhiệt điện Uông
Bí, nhiệt điện Ninh Bình. Ở miền Trung và miền Nam nước ta, nguồn PGK
này hầu như không có hoặc rất ít, trữ lượng không đáng kể.
-30-
2. CHƯƠNG 2. VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP THÍ NGHIỆM
2.1. Vật liệu chế tạo bê tông đầm lăn
Hiện nay các loại vật liệu sử dụng cho một số công trình BTĐL thuỷ
điện và thuỷ lợi tại Việt Nam chủ yếu sử dụng vật liệu trong nước hoặc sản
xuất ở Việt Nam theo công nghệ nước ngoài: Xi măng Poóc lăng và xi măng
hỗn hợp; đá dăm có nguồn gốc Bazan hoặc Granit, có các tính chất cơ lý tốt;
cát tự nhiên hoặc cát nhân tạo (tại những nơi không có cát tự nhiên hoặc cát
tự nhiên không đủ tiêu chuẩn); phụ gia khoáng như tro bay hoặc Puzơlan, tro
trấu, silica fume (muội silíc) ; phụ gia hoá học có tác dụng kéo dài thời gian
đông kết hay giảm lượng dùng nước cho bê tông.
2.1.1. Xi măng
Đối với các công trình bê tông trọng lực khối lớn, loại xi măng sử dụng
phải có lượng nhiệt thủy hóa thấp hơn loại xi măng thường, loại xi măng có
thành phần khoáng C3S và C3A thấp. Các loại xi măng Poóc lăng - Puzơlan và
xi măng Poóc lăng - xỉ lò cao phù hợp cho chế tao BTĐL.
Thông thường các loại xi măng tỏa nhiệt ít thì cường độ bê tông ở tuổi
sớm thường thấp, nhưng cường độ bê tông tuổi dài ngày lại tương đương hoặc
có thể cao hơn so với bê tông sử dụng xi măng thường. Trong đề tài sử dụng
xi măng PC40- Hoàng Mai có tại Phòng Nghiên cứu Vật liệu- Viện Thủy
Công làm thí nghiệm; thử theo TCVN 4030-2003; TCVN 6017-1995; TCVN
6016-1995; TCVN 6070- 2005. Kết quả thí nghiệm như trong bảng 2.1