Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.54 MB, 96 trang )
-18-
Giang được điều chỉnh thành đập bê tông truyền thống và đã thi công hoàn
thành vào năm 2003. Mặc dù vậy, các kết quả nghiên cứu thiết kế đập BTĐL
Tân Giang đã tích luỹ nhiều kinh nghiệm quý báu về thiết kế đập BTĐL, sử
dụng tro bay và phụ gia [28]. Các cấp phối bê tông M15 và M20 có cốt liệu
Dmax tới 100 mm và lượng tro bay Phả Lại là 25 - 33% so với xi măng để
khống chế nứt do ứng suất nhiệt được đưa vào quy trình xây dựng đập Tân
Giang [36].
Công trình BTĐL xây dựng đầu tiên của Việt Nam là đập thuỷ điện
Pleikrông tại tỉnh KonTum với chiều cao 71m được thiết kế bởi Công ty Tư
vấn Xây dựng điện I, khởi công xây dựng năm 2003. Tiếp đó hàng loạt công
trình đập thuỷ điện được thi công và chuẩn bị xây dựng bằng BTĐL (bảng
1.6) [14,23], thủy điện Bản Vẽ với 1.2x106 m3 BTĐL, hồ chứa nước Định
Bình: 0,24x106 m3 BTĐL, công trình thủy điện Sê San 4: 0.8x106 m3, công
trình thủy điện Sơn La: 3.1 x106 m3 BTĐL, Đồng Nai 4: 1.4x106 m3, Định
Bình: 0.24x106 m3 BTĐL và sắp tới là hồ chứa nước Nước Trong, tỉnh Quảng
Ngãi. Do công nghệ BTĐL ở nước ta mới được áp dụng, nên việc thiết kế và
thi công đập BTĐL vẫn thiên về biện pháp an toàn, tức là sử dụng BTĐL bên
trong lõi đập không có hoặc có yêu cầu chống thấm thấp. Cấp phối BTĐL có
lượng chất kết dính cao hơn so với bê tông cùng loại của các đập trên thế giới.
Đập thủy điện Pleikrông, BTĐL mác M15 tuổi 180 ngày, Dmax cốt liệu 40mm,
lượng chất kết dính 290 kg (80 kg xi măng +210 kg Puzơlan). Do hàm lượng
chất kết dính lớn nên cường độ bê tông thường vượt mác yêu cầu khá nhiều từ
30-40%, mặt khác phần BTĐL được sử dụng cho lõi đập nên không yêu cầu
khả năng chống thấm. Các kết quả thí nghiệm trong phòng cho thấy BTĐL
chỉ đạt được cường độ chống thấm từ B2÷B4. Đập Định Bình tỉnh Bình Định
do Công ty Tư vấn Xây dựng thủy lợi 1 thiết kế đang được xây dựng bằng
BTĐL, tường chống thấm mác M25 W8 bằng bê tông thường, tiếp theo là lớp
-19-
BTĐL dầy 3m mác M20 Dmax 40mm tuổi thiết kế 90 ngày, độ chống thấm B6,
lượng chất kết dính 261 kg (trong đó 126 kg xi măng, 141 kg tro bay); phần
lõi đập BTĐL mác M15 tuổi 90 ngày Dmax 60 mm, độ chống thấm B4, lượng
dùng chất kết dính 245 kg (105 kg xi măng + 40kg tro bay ). Các số liệu thu
được ngoài hiện trường đắp thử từ các mẫu khoan cho thấy cường độ BTĐL
đều vượt mác thiết kế, nhưng độ chống thấm đối với BTĐL mác M20 chỉ đạt
B4 và mác M15 chỉ đạt B2. Từ kết quả thực tế này, đơn vị tư vấn thiết kế đã
rút yêu cầu độ chống thấm của BTĐL xuống còn B4 đối với BTĐL mác M20
và B2 đối với BTĐL mác M15. Trên cơ sở đó cấp phối BTĐL của đập Định
Bình đã được điều chỉnh và được được cải tiến, giảm lượng dùng xi măng vẫn
đảm bảo cường độ. BTĐL mác M15 lượng dùng xi măng giảm còn 70 kg/m3.
bê tông đầm lăn mác M20 còn 85 kg/m3. Do giảm lượng dùng xi măng nên
giảm nhiệt thủy hóa trong BTĐL nhờ đó giảm thời gian chờ hạ nhiệt độ trong
khối đổ, tăng nhanh tiến độ thi công công trình [23].
Cho đến nay có thể nói Việt Nam đã chính thức có tên trên bản đồ công
nghệ BTĐL của thế giới. Theo báo cáo của Dr. M.R.H.Dunstan tại Hội nghị
xây dựng đập BTĐL, do Tập đoàn điện lực Việt Nam EVN tổ chức tại Hà
Nội tháng 4 năm 2007, đập BTĐL của thuỷ điện Sơn La đứng thứ 10 về chiều
cao và đứng thứ 3 về khối lượng bê tông trong số 10 đập bê tông lớn nhất của
thế giới, tính đến 2006. Việt Nam đứng thứ 2 thế giới, sau Trung Quốc, về số
lượng đập cao hơn 60 m đang thi công bằng BTĐL.
-20-
Bảng 1.2: Một số công trình đập BTĐL của Việt Nam
TT
I
Tên công trình
Chiều
cao
đập (m)
Ghi chú
Năm 2007 thí nghiệm hiện
trường. Thi công đập chính
T7/2007
Các đập đang thi công
1
TĐ Sơn La- Sơn La
139
2
TĐ Bản Chát- Lai Châu
130
3
TĐ Huội Quảng- Sơn La
104
Theo TKKT 1
4
TĐ Bản Vẽ- Nghệ An
136
Thi công đập dâng BTĐL vào
T2/2007
5
TĐ A Vương - Quảng Nam
82
Thi công đập BTĐL vào
T3/2006
6
TĐ sông Tranh- Quảng Nam
95
Chưa có đầm nén hiện trường
7
TĐ PleiKrong - KonTum
71
Khởi công 2003
8
TĐ Sê San 4- Gia Lai
71
Khởi công 2004
100
Dự kiến thi công BTĐL từ
T4/2007 đến T3/2009.Chưa
có đầm nén hiện trường
128
Dự kiến thi công BTĐL từ
T12/2007 đến T6/2010. Chưa
có đầm nén hiện trường
9
TĐ Đồng Nai 3- Lâm Đồng
10 TĐ Đồng Nai 4- Lâm Đồng
II
Các đập đang chuẩn bị đầu tư
11 TĐ Sông Bung 4-Quảng Nam
110
12 TĐ Đak Mi 4- Đồng Nai
90
13 TĐ Hủa Na – Nghệ An
90
-21-
1.3. Phụ gia khoáng hoạt tính dùng cho bê tông đầm lăn
1.3.1. Khái niệm về phụ gia khoáng
Các vật liệu sử dụng để chế tạo BTĐL cũng tương tự như bê tông
truyền thống, bao gồm xi măng, phụ gia khoáng, phụ gia hóa học, cốt liệu và
nước. Tuy nhiên, do đặc điểm chính của hỗn hợp BTĐL là không có độ sụt và
lượng xi măng sử dụng ít do đó thành phần các vật liệu của BTĐL khác nhiều
so với bê tông thông thường, trong đó cấp phối hạt cốt liệu và hàm lượng hạt
mịn là các yếu tố quan trọng trong việc định lượng thành phần cấp phối và
quyết định tính chất của hỗn hợp bê tông và BTĐL khi rắn chắc.
Hạt mịn sử dụng cho BTĐL là các loại vật liệu có kích thước hạt nhỏ
hơn 75 µm, tùy thuộc vào khối lượng chất kết dính (xi măng) và kích thước
lớn nhất của cốt liệu được sử dụng, yêu cầu về hàm lượng hạt mịn có thể
chiếm đến 10% khối lượng cốt liệu trong BTĐL. Các loại hạt mịn được sử
dụng trong BTĐL thường là các loại Puzơlan, tro bay, silica-fume, xỉ lò cao,
... được gọi chung là phụ gia khoáng. Việc lựa chọn và sử dụng hợp lý nguồn
phụ gia khoáng cho BTĐL là vấn đề rất cần thiết, có liên quan trực tiếp đến
địa điểm xây dựng công trình, yêu cầu và chất lượng bê tông, khả năng cung
cấp và giá thành công trình xây dựng
Phụ gia khoáng (PGK) là các vật liệu khoáng vô cơ có nguồn gốc tự
nhiên hoặc nhân tạo, có chứa SiO2 hoặc Al2O3 ở dang hoạt tính. Bản thân vật
liệu này không có tính kết dính nhưng khi được nghiền mịn và trong điều kiện
ẩm chúng sẽ có tác dụng hóa học với vôi và trở thành hợp chất có tính kết
dính, khi thủy hóa sẽ tạo thành Silicat Canxi ngậm nước.
1.3.2. Phân loại phụ gia khoáng
Tùy theo nguồn gốc của chúng mà người ta chia PGK thành 2 nhóm:
PGK tự nhiên và PGK nhân tạo.
-22-
- PGK có nguồn gốc tự nhiên là các khoáng sản được hình thành trong
thiên nhiên, có nguồn gốc từ núi lửa hoặc có trầm tích sinh học bao gồm: tro
núi lửa, đá bọt, đá bazan phong hóa, đá silic, đất Điatomit, ...
- PGK có nguồn gốc nhân tạo gồm các loại phế thải thu được trong các
quá trình sản xuất công nghiệp, bao gồm silica-fume, tro bay nhiệt điện, xỉ hạt
lò cao, ...
Theo khả năng tham gia phản ứng với vôi, người ta chia PGK thành 2
nhóm : PGK hoạt tính và PGK không hoạt tính
- PGK hoạt tính thuộc nhóm vật liệu có hoạt tính puzơlanic, thường được
gọi là phụ gia khoáng Puzơlan. Thành phần hóa học và khoáng vật trong đá
dao động rất lớn, gồm các pha thủy tinh và các pha kết tinh, trong đó pha thủy
tinh và các oxít silic hoạt tính là thành phần cơ bản làm cho đá có hoạt tính
puzơlanic.
- PGK không hoạt tính là các loại bột đá tự nhiên không hoặc ít có hoạt
tính puzơlanic, tác dụng chủ yếu là cải thiện cấp phối hạt, nâng cao độ đặc
chắc của cấu trúc vữa và bê tông. Loại này bao gồm đá vôi, đá đôlômit, đá
bazan, các loại sa khoáng khác.
Theo tiêu chuẩn ASTM-C618 của Mỹ: PGK hoạt tính được chia làm 3
loại:
- Loại N: Puzơlan thiên nhiên hay đã nung, bao gồm: Đất Điatomit, đá
opan, đá phiến sét, tro núi lửa hay đá bọt…
- Loại F: Tro bay thông thường được tạo ra từ việc đốt than antraxit hay
than mỡ
- Loại C: Tro bay thông thường được tạo ra tự than có tính Puzơlan có
tính tự kết dính (loại này có thể có hàm lượng vôi CaO trên 10%)