Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (693.47 KB, 112 trang )
Nguyên tắc cơ bản của phong trào làng mới: Nhà nước hỗ trợ vật tư, nhân
dân đóng góp công của. Nhân dân quyết định loại công trình nào ưu tiên xây dựng
và chịu trách nhiệm quyết định toàn bộ thiết kế, chỉ đạo thi công, nghiệm thu công
trình. Sự giúp đỡ của Nhà nước trong những năm đầu chiếm tỷ lệ cao, dần dần các
năm sau, tỷ lệ hỗ trợ của Nhà nước giảm trong khi quy mô địa phương và nhân dân
tham gia tăng dần. Nội dung thực hiện của chương trình:
Thứ nhất là, phát huy nội lực của nhân dân để xây dựng kết cấu hạ tầng nông
thôn. Bao gồm: Cải thiện cơ sở hạ tầng cho từng hộ dân như ngói hoá nhà ở, lắp
điện thoại, nâng cấp hàng rào quanh nhà... và kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất, đời
sống của nông dân.
Thứ hai là, thực hiện các dự án nhằm tăng thu nhập cho nông dân như tăng
năng suất cây trồng, xây dựng vùng chuyên canh, thúc đẩy hợp tác trong sản xuất
và tiêu thụ sản phẩm, phát triển chăn nuôi, trồng rừng, đa canh.
Kết quả đạt được, 12 loại dự án mở rộng đường nông thôn, thay mái lá cho nhà
ở, lắp đặt cống và máy bơm, xây dựng các trạm giặt công cộng cho làng và sân chơi
cho trẻ em đã bắt đầu được tiến hành. Sau 8 năm, đến năm 1978, toàn bộ nhà nông
thôn đã được ngói hoá (năm 1970 có gần 80% nhà ở nông thôn lợp lá), hệ thống giao
thông nông thôn đã được xây dựng hoàn chỉnh. Sau 20 năm, đã có đến 84% rừng được
trồng trong thời gian phát động phong trào làng mới. Sau 6 năm thực hiện, thu nhập
trung bình của nông hộ tăng lên 3 lần từ 1025 USD năm 1972 lên 2061 USD năm 1977
và thu nhập bình quân của các hộ nông thôn trở nên cao tương đương thu nhập bình
quân của các hộ thành phố. Đây là một điều khó có thể thực hiện được ở bất cứ một
nước nào trên thế giới.
Thông qua phong trào nông thôn mới, Hàn Quốc đã phổ cập được hạ tầng cơ
sở ở nông thôn, thu nhỏ khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, nâng cao trình độ
tổ chức của nông dân, chấn hưng tinh thần quốc dân, cuộc sống của người nông dân
cũng đạt đến mức khá giả, nông thôn đã bắt kịp tiến trình hiện đại hóa của cả Hàn
Quốc, đồng thời đưa thu nhập quốc dân Hàn Quốc đạt đến tiêu chí của một quốc gia
phát triển.
17
2.2.1.2 Xây dựng nông thôn mới ở Trung Quốc
Trung Quốc xuất phát từ một nước nông nghiệp, đại bộ phận người lao động
sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp. Nên cải cách kinh tế ở nông thôn là một khâu
đột phá quan trọng trong cuộc cải cách kinh tế ở Trung Quốc. Vì vậy từ đầu những
năm 80 của thế kỷ 20, Trung Quốc đã chọn hướng phát triển nông thôn bằng cách
phát huy những công xưởng nông thôn thừa kế được của các công xã nhân dân
trước đây, thay đổi sở hữu và phương thức quản lý để phát triển mô hình "công
nghiệp hưng trấn". Các lĩnh vực như chế biến nông lâm sản, hàng công nghiệp nhẹ,
máy móc nông cụ phục vụ sản xuất nông nghiệp… đang ngày càng được đẩy mạnh.
Nguyên tắc của Trung Quốc là quy hoạch đi trước, định ra các biện pháp thích
hợp cho từng nơi, đột phá trọng điểm, làm mẫu đường. Chính phủ hỗ trợ, nông dân xây
dựng. Với mục tiêu "ly nông bất ly hương", Trung Quốc đã thực hiện đồng thời 3
chương trình phát triển nông nghiệp và phát triển nông thôn:
- Chương trình đốm lửa: Điểm khác biệt của chương trình này là trang bị cho
hàng triệu nông dân các tư tưởng tiến bộ khoa học, bồi dưỡng nhân tài đốm lửa,
nâng cao tố chất nông dân. Sau 15 năm thực hiện, chương trình đã bồi dưỡng được
60 triệu thanh niên nông thôn thành một đội ngũ cán bộ khoa học cốt cán, tạo ra
một động lực tiềm năng thúc đẩy nông thôn phát triển, theo kịp với thành thị.
- Chương trình được mùa: Chương trình này giúp đại bộ phận nông dân áp
dụng khoa học tiên tiến, phương thức quản lý hiện đại để phát triển nông nghiệp,
nông thôn. Trong 15 năm sản lượng lương thực của Trung Quốc đã tăng lên 3 lần so
với những năm đầu 70. Mục tiêu phát triển nông nghiệp là sản xuất các nông sản
chuyên dụng, phát triển chất lượng và tăng cường chế biến nông sản phẩm.
- Chương trình giúp đỡ vùng nghèo: Mục tiêu là nâng cao mức sống của các
vùng nghèo, vùng miền núi, dân tộc ít người, mở rộng ứng dụng thành tựu khoa học
tiên tiến, phổ cập tri thức khoa học công nghệ và bồi dưỡng cán bộ khoa học cốt cán
cho nông thôn xa xôi, tăng sản lượng lương thực và thu nhập của nông dân. Sau khi
thực hiện chương trình, ở những vùng này, số dân nghèo đã giảm từ 1,6 triệu người
xuống còn 5 vạn người, diện nghèo khó giảm từ 47% xuống còn 1,5%.
18
Tại hội nghị toàn thể Trung Ương lần thứ 5 khoá XVI của Đảng Cộng Sản
Trung Quốc, năm 2005, lần đầu tiên Trung Quốc đưa ra quy hoạch "Xây dựng nông
thôn mới xã hội chủ nghĩa". Đây là kế hoạch xây dựng mới được Trung Quốc đưa
vào kế hoạch phát triển kinh tế xã hội năm năm lần thứ XI (2006-2010). Mục tiêu
của quy hoạch là: "Sản xuất phát triển, cuộc sống dư dật, làng quê văn minh, thôn
xã sạch sẽ, quản lý dân chủ". Xây dựng nông thôn mới ở Trung Quốc tạo nên một
hình ảnh mới đầy ấn tượng về một "nông thôn Trung Quốc" đầy vẻ đẹp tráng lệ.
2.2.1.3 Phát triển nông thôn ở Đài Loan
Đài Loan là một nước thuần nông nghiệp. Từ năm 1949 – 1953 Đài Loan bắt
đầu thực hiện sách lược “lấy nông nghiệp nuôi công nghiệp, lấy công nghiệp phát
triển nông nghiệp”.
Một vấn đề cải thiện kinh tế nông nghiệp đã được Chính phủ thực hiện là
"Chương trình phát triển nông thôn tăng tốc", "Tăng thu nhập của nông trại và tăng
cường chương trình tái cấu trúc nông thôn", "Chương trình cải cách ruộng đất giai
đoạn 2". Từ các chương trình này nhiều đầu tư đã được đưa vào cơ sở hạ tầng nông
thôn và được cụ thể hoá bằng 10 nội dụng cụ thể:
- Cải cách ruộng đất.
- Quy hoạch và bảo tồn nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- Tăng cường nghiên cứu nông nghiệp và đổi mới kỹ thuật.
- Chuyển giao công nghệ mới.
- Tập huấn các nông dân hạt nhân.
- Cung cấp các đầu vào hiện đại.
- Tín dụng nông nghiệp.
- Mở rộng quy mô sản xuất nông nghiệp tương ứng với sự thay đổi lao động
và đầu tư.
- Dịch chuyển cơ cấu thị trường.
- Cải thiện phúc lợi xã hội cho nông dân.
2.2.2 Xây dựng mô hình nông thôn mới ở Việt Nam
2.2.2.1 Lịch sử phát triển các mô hình tổ chức sản xuất ở Việt Nam
- Trước Cách mạng Tháng 8 năm 1945 nước ta chỉ có 3% dân số là địa chủ
19
chiếm 41,4% ruộng đất; Nông dân lao động chiếm 97% dân số nhưng chỉ có 36%
diện tích đất.
- Từ năm 1954 - 1959, ruộng đất được giao cho người dân với mục tiêu
"người cày có ruộng". Giai đoạn này quan hệ sản xuất chuyển từ địa chủ phong
kiến sang quan hệ sản xuất mới, nông dân làm chủ ruộng đất và sản xuất độc lập
trên ruộng đất của mình.
- Từ 1960 - 1985: Chia làm 2 giai đoạn nhỏ là mô hình tổ chức sản xuất dưới
dạng hợp tác xã nông nghiệp.
+ Từ 1960 - 1975: Mô hình hợp tác hoá nông nghiệp được triển khai trên
toàn miền Bắc. Trong thời kỳ này Nhà nước đã tăng cường đầu tư cho nông thôn về
cơ sở hạ tầng kỹ thuật chủ yếu để phát triển HTX: Phát triển các công trình kỹ thuật
(nhà kho, sân phơi, các trại giống…) đẩy mạnh việc chuyển giao khoa học kỹ thuật
về trồng trọt, chăn nuôi… đã có những tác động tích cực đến sản xuất nông nghiệp.
+ Từ 1976 - 1980: Mô hình tổ chức hợp tác xã nông nghiệp được triển khai
trên phạm vi cả nước. Trong đó vai trò của cấp huyện được coi trọng, là cấp quản lý
kinh tế chủ yếu đối với việc thực hiện các chiến lược phát triển nông nghiệp và
nông thôn. Hình ảnh của người nông dân lúc này là hình ảnh của người xã viên
HTX.
− Từ năm 1981 - 1987, phát triển mô hình khoán sản phẩm đến nhóm và
người lao động. Chia làm 2 giai đoạn:
+ Giai đoạn 1981-1984: Chỉ thị 100 CT - TW (13/1/1981) về cải tiến công tác
khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã nông
nghiệp”. Tập thể điều hành 5 khâu là giống, làm đất, thủy lợi, phân bón, phòng trừ sâu
bệnh; nhóm và người lao động đảm nhận 3 khâu là cấy, chăm sóc và thu hoạch. Chỉ thị
đã tạo ra một không khí mới trong nông thôn: nông dân đã phấn khởi sản xuất, năng
suất tăng lên rõ rệt. Tuy nhiên, người dân vẫn còn nhiều băn khoăn, không chịu bó
buộc ở “5 khâu” do tập thể đảm nhiệm.
Trong giai đoạn này, mục tiêu sản xuất vẫn bị áp đặt bởi kế hoạch từ trên
xuống, nông dân vẫn chưa có quyền làm chủ thực sự.
+
Giai đoạn 1985-1987: Nền kinh tế cả nước lâm vào khủng hoảng trầm
trọng, nền nông nghiệp bị sa sút. Mặt khác mô hình chỉ tập trung vào khoán sản
20
phẩm đến nhóm và người lao động chứ chưa quan tâm tới khoán hộ, do đó hiệu quả
đầu tư giảm dần, thu nhập nông hộ giảm.
−
Năm 1988-1991, khoán cho nhóm và người lao động
+
Nghị quyết 10 NQ/TW (5/4/1988) của Bộ chính trị về đổi mới quản lý
kinh tế nông nghiệp. Nghị quyết khẳng định hộ gia đình xã viên là đơn vị kinh tế tự
chủ ở nông thôn có ý nghĩa quan trọng với sự phát triển của kinh tế nông hộ.
+
Đổi mới của Nghị quyết 10 so với chỉ thị 100 là “một chủ, bốn tự”
“Một chủ” xác định hộ là đơn vị kinh tế tự chủ. Đây là bước đột phá rất
quan trọng trong nghị quyết 10.
“Bốn tự” là hợp tác xã tự xác định phương hướng, nhiệm vụ sản xuất kinh
doanh; tự xác định hình thức, quy mô sản xuất; tự xác định hình thức phân
phối, tiêu thụ sản phẩm, đảm bảo xã viên được tự ra và vào hợp tác xã.
+
Nghị quyết tạm giao trong 5 năm (1988-1993) chủ trương trao quyền sử dụng
ruộng đất cho hộ; Xóa bỏ chính sách thu mua lương thực theo nghĩa vụ cho nông hộ phát triển
sản xuất, làm cho người lao động quan tâm đến sản phẩm cuối cùng.
+
Các thành phần kinh tế và kinh tế hộ nông dân phát triển dẫn đến hiệu quả
cao trong sản xuất và không ngừng nâng cao mức sống của nông dân.
−
Mô hình sản xuất nông nghiệp bằng việc giao đất cho nông hộ:
+ Từ năm 1993 đến nay, đất đai được giao quyền sử dụng lâu dài cho các nông
hộ, người nông dân được chủ động sản xuất trên mảnh đất được giao.
+ Từ Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VI, VII và VIII đã đưa ra những chủ
trương về phát triển 5 thành phần kinh tế và 3 chương trình kinh tế lớn của nhà
nước; Hộ nông dân là chủ thể sản xuất ban hành giao đất, cấp giấy chứng nhận
quyền sử dụng đất, mở rộng vay vốn, tín dụng, thực hiện xóa đói giảm nghèo...
mở rộng quyền tự chủ kinh doanh cho nông hộ, kinh tế nông hộ thay đổi lớn.
Giai đoạn này, nông hộ là đơn vị sản xuất cơ bản. Người nông dân đã chú
trọng đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho sản xuất và đóng góp nhiều cho phát triển cơ
sở hạ tầng, làm cho bộ mặt nông thôn có những thay đổi đáng kể.
Mô hình này có tác dụng làm cho cơ cấu kinh tế nông thôn chuyển dịch
mạnh theo hướng tích cực. Đời sống của người dân nông thôn đã ngày càng nâng
21
cao, đẩy mạnh tiến trình phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại
hoá.
2.2.2.2 Các nghiên cứu có liên quan
Mô hình đô thị làng quê Quảng Nam ngày 60/04/2009
Đề tài đã hệ thống hoá các làng truyền thống, làng nghề truyền thống, làng
công nông thương tại Quảng Nam, một tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm
miền Trung có quá trình đô thị hoá nhanh và nhiều tiềm năng về kinh tế và du lịch.
Đồng thời đánh giá thực trạng các yếu tố truyền thống và hiện đại trong các lĩnh
vực. Đề tài cũng nghiên cứu mối liên hệ, ảnh hưởng giữa các xóm, ấp và đô thị,
giữa làng và đô thị.
Hình 2.1 Mô hình quy hoạch đô thị làng quê tại Quảng Nam
Đề tài đã đề xuất 2 mô hình thí điểm tại Quảng Nam: Làng nghề gốm cổ Thanh
Hà (Hội An) áp dụng mô hình 1; Thôn 2, xã Tam Tiến, Núi Thành và khu đất phía Tây
phường Cửa Đại, Hội An áp dụng mô hình 2.
Đề tài là một khía cạnh cần triển khai nhằm thực hiện nghị quyết số 26NQ/T.Ư “Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn” do Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung
ương Đảng khóa X đề ra. Đề tài có khối lượng tư liệu phong phú, kết hợp khảo sát ở
Việt Nam với kinh nghiệm của nước ngoài. Kết quả của đề tài có thể áp dụng tại
Quảng Nam, sau nhân rộng ra toàn quốc.
Chương trình phát triển nông thôn mới cấp xã
Thực hiện nghị quyết 06-NQ/TW của Bộ chính trị, từ năm 2001, Ban kinh tế
Trung ương đã cùng với Bộ Nông nghiệp và PTNT, ngành và địa phương triển khai
22
xây dựng mô hình thí điểm “phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, hợp tác hoá, dân chủ hoá” tại các vùng sinh thái. Các chương trình này
được đưa vào chương trình trọng tâm của Bộ nông nghiệp và PTNT, đó là chương
trình phát triển nông thôn cấp xã. Chương trình đã được triển khai tại 14 xã điểm
của Bộ Nông nghiệp và PTNT (tăng lên 18 xã năm 2004) và khoảng 200 xã điểm
của các địa phương. Chương trình được thực hiện với 5 nội dung:
- Phát triển kinh tế hàng hoá với cơ chế phù hợp khai thác được lợi thế của
địa phương, có thị trường tiêu thụ.
- Phát triển cơ sở hạ tầng phù hợp với nền nông nghiệp hàng hoá đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hoá.
- Xây dựng khu dân cư văn minh.
- Tăng cường công tác văn hoá, y tế, giáo dục trong nông thôn và xây dựng
đội ngũ cán bộ.
- Tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng, phát huy vai trò của cán bộ tổ
chức quần chúng, thực hiện tập trung dân chủ.
Sau 3 năm thực hiện, Chương trình đã đào tạo cho cán bộ các xã điểm, triển
khai quy hoạch cho 18 xã điểm của Bộ Nông nghiệp và PTNT, lồng ghép các
chương trình, dự án về khuyến nông, nước sạch, và vệ sinh môi trường cho những
xã điểm này.
2.2.4 Một số bài học rút ra từ kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới
Từ kinh nghiệm xây dựng nông thôn mới ở Hàn Quốc, Trung Quốc và Đài
Loan cho thấy: Dù đây là các quốc gia đi trước trong vấn đề hiện đại hóa trong tiến
trình hiện đại hóa, họ đều tương đối chú trọng vào công cuộc xây dựng và phát triển
nông thôn, đồng thời tích lũy được nhiều kinh nghiệm phong phú. Các cách làm này
chủ yếu bao gồm: Kịp thời điều chỉnh mối quan hệ giữa thành thị và nông thôn,
quan hệ giữa công nghiệp và nông nghiệp; Đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hiện
đại; Cố gắng nâng cao thu nhập cho nông dân; Nâng cao trình độ tổ chức cho người
nông dân; Thúc đẩy đổi mới kỹ thuật, bồi dưỡng nông dân theo mô hình mới.
Bất luận tiến trình đô thị hóa và công nghiệp hóa được thúc đẩy thế nào, các
nước có đa phần dân số làm nghề nông cũng buộc phải chấp nhận một thực tế: Vài
chục năm, thậm chí hàng trăm năm nữa, số dân tiếp tục dựa vào nông nghiệp để
23
mưu sinh vẫn là số lớn. Bởi vậy, xây dựng nông thôn mới không phải là một quy
hoạch kinh tế ngắn hạn, mà là một quốc sách lâu dài...
Đối với nước ta, Đảng và Nhà nước đã chủ trương đẩy mạnh CNH - HĐH
nông nghiệp, nông thôn nhằm mục tiêu phát triển nông thôn theo hướng hiện đại,
đảm bảo phát triển cả về kinh tế và đời sống xã hội. Đi theo đường lối của Đảng,
từng địa phương trong cả nước tiến hành phát triển kinh tế mà trước hết là phát triển
kinh tế nông nghiệp, nông thôn, trong đó có chú trọng phát triển công nghiệp nông
thôn. Nhằm thực hiện mục tiêu đó, Nghị quyết Ðại hội X của Ðảng đã đề ra nhiệm
vụ thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới. Xây dựng các làng, xã, ấp, bản
có cuộc sống no đủ, văn minh, môi trường lành mạnh.
Ðể xây dựng thành công mô hình nông thôn mới phải là một phong trào
quần chúng rộng lớn, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, có sự tham gia
chủ động, tích cực, tự giác của mỗi người dân, mỗi cộng đồng dân cư, của cả hệ
thống chính trị ở cơ sở, phát huy cao nhất nội lực, có sự hỗ trợ, giúp đỡ của Nhà
nước và chính quyền các cấp. Vì vậy, để xây dựng mô hình thành công cần có sự
cộng đồng trách nhiệm của chính quyền các cấp với đoàn thể địa phương và sự hợp
tác, ý thức, nỗ lực của chính những người dân vốn quen với cách sống sau luỹ tre
làng.
24
PHẦN III: ĐẶC ĐIỂM ĐỊA BÀN VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1 Đặc điểm địa bàn nghiên cứu
3.1.1 Điều kiện tự nhiên
3.1.1.1 Vị trí địa lý và địa hình
Vị trí địa lý
Xã Phú Lâm nằm ở phía bắc huyện Tiên Du tỉnh Bắc Ninh, cách trung tâm
tỉnh 8 km, cách thị trấn Lim 2 km, có địa giới hành chính như sau:
+ Phía bắc giáp xã Long Châu, Đông Phong huyện Yên Phong.
+ Phía nam giáp xã Tương Giang, Tam Sơn huyện Từ Sơn và xã Nội Duệ.
+ Phía Đông giáp xã Phong Khê huyện Yên Phong và thị trấn Lim.
+ Phía tây giáp xã Trung Nghĩa huyện Yên Phong và xã Tam Sơn - huyện Từ
Sơn.
Trên địa bàn của xã có tuyến tỉnh lộ 276 chạy qua với tổng chiều dài là 6,3
km. Đây là một lợi thế mạnh của xã Phú Lâm trong việc lưu thông hàng hoá, giao
lưu kinh tế, văn hoá với các địa phương khác trong vùng.
Địa hình
Nằm trong vùng đồng bằng sông Hồng, nên địa hình xã Phú Lâm tương đối
bằng phẳng, hầu hết các diện tích đất trong xã đều có độ dốc nhỏ hơn 3 0, độ cao
trung bình từ 3 - 4 m so với mực nước biển.
3.1.1.2 Điều kiện khí hậu, thời tiết và thuỷ văn
Phú Lâm nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa do vậy khí hậu được chia thành
hai mùa rõ rệt (mùa mưa và mùa khô).
Mùa mưa nóng: Bắt đầu từ tháng 5 đến tháng 10, nhiệt độ từ 26,2 0 – 30,70C,
lượng mưa bình quân/tháng từ 106 mm (tháng 10) đến 614,4 mm (tháng 6), lượng
mưa trong các tháng mùa mưa chiếm 93,18% tổng lượng mưa cả năm.
Mùa khô lạnh: Bắt đầu từ tháng 11 và kết thúc vào tháng 4 năm sau, với
lượng mưa bình quân/tháng biến động từ 2,5 - 32,9 mm. Với lượng mưa ít kèm theo
khô hanh kéo dài đã làm cho diện tích ao, hồ và các diện tích đất canh tác bị khô
hạn. Nhiệt độ trung bình tháng từ 170 – 240C.
25
Độ ẩm không khí trung bình/năm là 78%, trong đó tháng có độ ẩm trung
bình/tháng lớn nhất là 86% (tháng 3), tháng có độ ẩm không khí thấp nhất là 70%
(tháng 12).
Nhìn chung xã Phú Lâm nằm trong vùng nhiệt đới khí khí hậu gió mùa thuận
lợi cho phát triển nền nông nghịêp đa dạng và phong phú. Mùa Đông với khí hậu
khô, lạnh làm cho vụ đông trở thành vụ chính có thể trồng được nhiều loại cây rau
màu ngắn ngày cho giá trị cao. Yếu tố hạn chế lớn nhất đối với sử dụng đất là mưa
lớn tập trung theo mùa thường làm ngập úng các khu vực thấp trũng gây khó khăn
cho việc thâm canh tăng vụ mở rộng diện tích.
3.1.1.3 Đất đai
Xã Phú Lâm thuộc vùng đồng bằng Bắc Bộ là khu vực đất đai màu mỡ có
điều kiện tốt cho phát triển nông nghiệp. Phú Lâm là một xã thuần nông nên diện
tích đất nông nghiệp là chủ yếu với diện tích là 854,24 ha chiếm 70,25% tổng diện
tích đất tự nhiên, đất phi nông nghiệp chiếm 29,68% tương ứng với khoảng 360,85
ha, đất chưa sử dụng rất nhỏ 0,83 ha chiếm 0,07% tổng diện tích đất tự nhiên của
xã. Sự biến động về cơ cấu đất đai của xã thể hiện qua bảng 3.1
Tổng diện tích đất tự nhiên của xã qua 3 năm không có sự thay đổi do sự
phân bố địa giới hành chính nhưng diện tích đất nông nghiệp của xã lại có xu hướng
giảm xuống do quá trình chuyển dịch cơ cấu từ nông nghiệp sang phi nông nghiệp.
Diện tích đất nông nghiệp của xã năm 2007 là 870,76 ha chiếm 71,61% nhưng đến
năm 2009 giảm xuống còn 854,24 ha chiếm 70,25% tổng diện tích đất tự nhiên,
bình quân mỗi năm đất nông nghiệp giảm 0,05%. Diện tích đất nông nghiệp giảm
mà cụ thể là do diện tích đất trồng lúa giảm. Năm 2007, đất trồng lúa là 701,99 ha
chiếm 80,62% diện tích đất nông nghiệp giảm xuống chỉ còn 605,89 ha năm 2009
và chiếm 70,93%, bình quân 1 năm diện tích đất trồng lúa giảm 7,10%. Diện tích
đất trồng cây hàng năm khác đặc biệt là trồng hoa cây cảnh có xu hướng tăng lên,
năm 2007, diện tích trồng hoa cây cảnh là 34,15 ha chiếm 3,92% đất nông nghiệp
nhưng đến năm 2009 diện tích đất này đã tăng lên là 98,15 ha chiếm 11,49%.
26