1. Trang chủ >
  2. Thạc sĩ - Cao học >
  3. Sư phạm >

Dàn ý công trình

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (4.31 MB, 173 trang )


PHẦN II: NỘI DUNG

Chương 1

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC SỬ DỤNG TRÒ CHƠI

TRONG DẠY HỌC NHẰM NÂNG CAO HỨNG THÚ HỌC TẬP VÀ HIỆU

QUẢ DẠY HỌC HÓA HỌC

1.1. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

1.1.1 Ở nước ngoài

Vào những năm 40 của thế kỷ XIX, một số nhà khoa học giáo dục Nga như:

P.A.Bexonova, OP.Seina, V.I.Đalia, E.A.Pokrovxki ... đã đánh giá cao vai trò giáo dục,

đặc biệt và tính hấp dẫn của trò chơi dân gian Nga đối với trẻ em nhất là trẻ mẫu

giáo. E.A.Pokrovxki trong lời đề tựa cho tuyển tập “Trò chơi của trẻ em Nga” đã chỉ

ra nguồn gốc, giá trị đặc biệt và tính hấp dẫn lạ thường của trò chơi dân gian Nga

[24tr19-20].



Bên cạnh kho tàng trò chơi học tập trong dân gian còn có một số hệ thống

trò chơi dạy học khác do các nhà giáo dục có tên tuổi xây dựng. Đại diện cho

khuynh hướng sử dụng trò chơi dạy học làm phương tiện phát triển toàn diện cho

trẻ phải kể đến nhà sư phạm nổi tiếng người tiệp khắc I.A.Komenxki (1592-1670).

Ông coi trò chơi là hình thức hoạt động cần thiết, phù hợp với bản chất và khuynh

hướng của trẻ. Trò chơi dạy học là một dạng hoạt động trí tuệ nghiêm túc, là nơi

mọi khả năng của trẻ em được phát triển, mở rộng phong phú thêm vốn hiểu biết.

Với quan điểm trò chơi là niềm vui sướng của tuổi thơ, là phương tiện phát triển

toàn diện cho trẻ I.A.Komenxki đã khuyên người lớn phải chú ý đến trò chơi dạy

học cho trẻ và phải hướng dẫn, chỉ đạo đúng đắn cho trẻ chơi. Trong nền giáo dục

cổ điển, ý tưởng sử dụng trò chơi với mục đích dạy học được thể hiện đầy đủ trong

hệ thống giáo dục của nhà sư phạm người Đức Ph.Phroebel (1782-1852) Ông là

người đã khởi xướng và đề xuất ý tưởng kết hợp dạy học với trò chơi cho trẻ. Quan

điểm của ông về trò chơi phản ánh cơ sở lý luận sư phạm duy tâm thần bí. Ông cho

rằng thông qua trò chơi trẻ nhận thức được cái khởi đầu do thượng đế sinh ra tồn



9



tại ở khắp mọi nơi, nhận thức được những qui luật tạo ra thế giới, tạo ra ngay

chính bản thân mình. Vì thế ông phủ nhận tính sáng tạo và tính tích cực của trẻ

trong khi chơi. Ph.Phroebel cho rằng, nhà giáo dục chỉ cần phát triển cái vốn có

sẵn của trẻ, ông đề cao vai trò giáo dục của trò chơi trong quá trình phát triển thể

chất, làm vốn ngôn ngữ cũng như phát triển tư duy, trí tưởng tượng của trẻ [24

tr22]. I.B.Bazedov cho rằng, trò chơi là phương tiện dạy học. Theo ông, nếu trên

tiết học, giáo viên sử dụng các phương pháp, biện pháp chơi hoặc tiến hành tiết

học dưới hình thức chơi thì sẽ đáp ứng được nhu cầu và phù hợp với đặc điểm của

người học và tất nhiên hiệu quả tiết học sẽ cao hơn [24 tr25-26]. Vào những năm

30-40-60 của thế kỷ XX, vấn đề sử dụng trò chơi dạy học trên “tiết học” được phản

ánh trong



công



trình của R.I.Giucovxkaia,



VR.Bexpalova,



E.I.Udalsova.



R.I.Giucovxkaia đã nâng cao vị thế của dạy học bằng trò chơi. Bà chỉ ra những tiềm

năng và lợi thế của những “tiết học” dưới hình thức trò chơi học tập, coi trò chơi

học tập như là hình thức dạy học, giúp người học lĩnh hội những tri thức mới từ

những ý tưởng đó, Bà đã soạn thảo ra một số “tiết học – trò chơi” và đưa ra một số

yêu cầu khi xây dựng chúng [24 tr30]. Bên cạnh đó, tính tích cực cũng được các

nhà khoa học như: B.P.Exipov, A.M.Machiuskin (Liên Xô); Okon (Balan), Skinner,

Bruner (Mỹ), Xavier, Roegiers (Pháp) ...nghiên cứu theo các khía cạnh khác nhau.

Thứ nhất, nghiên cứu và xem xét tính tích cực nhận thức của người học trong mối

quan hệ giữa nhận thức và tình cảm, ý chí (A.I.Serbacov, I.F.Kharlamov,

R.A.Nhidamov, V.Okon ...) hướng nghiên cứu này đã bổ trợ rất nhiều cho các nhà

giáo dục trong việc tìm kiếm những con đường và điều kiện cần thiết nhằm phát

huy tính tích cực nhận thức của người học. Thứ hai, nghiên cứu về bản chất và cấu

trúc của tính tích cực nhận thức của người lớn và trẻ em, trong đó đặc biệt lưu ý

tới vai trò chủ động và chủ thể trong quá trình nhận thức (B.P.Exipop, LP.Anstova,

Xavier Roegiers, Jean-Marc Denomme, Madedine Roy...) các tác giả này coi tính tích

cực nhận thức là thái độ của chủ thể nhận thức đối với đối tượng nhận thức thông

qua việc huy động các chức năng tâm lý ở mức độ cao nhằm giải quyết những vấn

đề nhận thức.



10



1.1.2. Ở trong nước

Ở Việt Nam, có nhiều tác giả nghiên cứu về việc thiết kế và sử dụng trò

chơi dạy học dưới các góc độ và các bộ môn khác nhau nhưng chủ yếu là cho học

sinh mẫu giáo và tiểu học như: Phan Huỳnh Hoa,Vũ Minh Hồng, Trương Kim

Oanh, Phan Kim Liên, Lê Bích Ngọc ... đã để tâm nghiên cứu biên soạn một số trò

chơi và trò chơi học tập [25], [27], [37]…. Đối với môn Hóa học, một số luận văn,

luận án và các nhà nghiên cứu gần đây cũng đề cập đến việc xây dựng và sử dụng

trò chơi dạy học nhằm phát huy tính tích cực của người học [1], [29], [31], [35],

[51]. Tuy nhiên, mỗi một tác giả lại xem xét các trò chơi dạy học ở các góc độ

khác nhau, chẳng hạn: Luận văn thạc sĩ của tác giả Nguyễn Xuân Việt nghiên cứu

việc xây dựng và sử dụng một số trò chơi kết hợp vào bài giảng điện tử nhằm

nâng cao tính tích cực học tập môn hóa học cho HS (phần phi kim - hóa học 10nâng cao), khóa luận tốt nghiệp của sinh viên Nguyễn Thị Thúy Nga nghiên cứu

về vấn đề xây dựng và sử dụng trò chơi dạy học nhằm tích cực hóa quá trình dạy

và học phần hữu cơ Hóa học 11…những hệ thống trò chơi và trò chơi học tập

được các tác giả đề cập đến chủ yếu nhằm củng cố kiến thức hoặc khởi động

trong một số tiết học rèn các giác quan chú ý, ghi nhớ, phát triển tư duy cho học

sinh. Các tác giả đặc biệt quan tâm đến ý nghĩa phát triển của trò chơi học tập,

không chỉ phát triển ở các giác quan mà phát triển các chức năng tâm lý chung

của người học. Tuy nhiên, trong các nghiên cứu này cũng chưa đi sâu nghiên cứu

việc xây dựng và sử dụng trò chơi dạy học dành cho quá trình nhận thức của

người học, giúp cho người học có thể tự học qua các trò chơi, thông qua trò chơi

và hoạt động chơi người học phát huy được năng lực sáng tạo, năng lực tư duy,

năng lực giải quyết vấn đề, năng lực hợp tác, năng lực vận dụng kiến thức vào

thực tiễn,...của mình, học sinh được cọ sát và tương tác với nhau. Tóm lại, điểm

qua các kết quả nghiên cứu trên cho thấy từ trước đến nay tuy đã có khá nhiều

công trình nghiên cứu về trò chơi dạy học. Song chưa có một công trình nghiên

cứu nào đi sâu vào việc thiết kế và sử dụng trò chơi dạy học nhằm tích cực hóa

hoạt động học tập của HS trong dạy học môn Hóa học. Những công trình nghiên



11



cứu nêu trên là cơ sở cho việc nghiên cứu đề tài: “Thiết kế và sử dụng trò chơi

trong dạy học nhằm nâng cao hứng thú học tập và hiệu quả dạy học Hóa học”

1.2. Phương hướng đổi mới phương pháp dạy học hóa học

1.2.1. Đổi mới PPDH- xu hướng chung của thế giới

Đổi mới PPDH đã và đang được thực hiện ở nhiều nước trên thế giới. Trước

đây, việc dạy học được diễn ra theo mô hình “lấy giáo viên làm trung tâm”, ngày nay

xu hướng mới đang được áp dụng là “dạy học lấy học sinh làm trung tâm”. Phương

pháp dạy học nặng về thuyết trình của thầy dần được thay thế bằng các phương

pháp dạy học tích cực, đề cao tự học của trò dưới sự hướng dẫn, điều phối của giáo

viên. Ngoài ra, hoạt động dạy và học còn được hỗ trợ đắc lực bằng các phương tiện

dạy học hiện đại như máy tính, máy chiếu, băng hình, phần mềm dạy học, …

Các nước trong khu vực Đông Nam Á như Singapo, Malaisia, Thái lan đã

có nhiều biện pháp để nâng cao chất lượng giáo dục. Người Singapo có khẩu hiệu

“dạy ít, học nhiều” với tham vọng đưa Singapo trở thành một trong những nước

dẫn đầu về giáo dục và khoa học công nghệ. Các nước phát triển trong tổ chức

OECD (Organisation for Economic Co-operation and Development) đã có một kỳ

thi quốc tế đánh giá trình độ học sinh phổ thông viết tắt là PISA (Programme For

International Student Assessment). Kết quả của ba lần thi gần đây cho thấy Phần

Lan, một nước Bắc Âu, đang có nền giáo dục tốt nhất thế giới. Tương ứng với nền

giáo dục ưu việt, Phần Lan có nền kinh tế cạnh tranh số một trên thế giới. Hàng

trăm đoàn chuyên gia giáo dục của các nước đã đến học tập Phần Lan, trong đó

có nhiều đoàn đến từ Việt Nam.

1.2.2. Định hướng đổi mới PPDH ở Việt Nam

Đại hội Đảng lần thứ VI của Đảng (1986) đã quyết định đưa nước ta vào

một thời kì phát triển mới – đoạn tuyệt với chính sách tập trung, quan liêu, bao

cấp, bước vào thời kì công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đảng ta chọn giáo

dục và đào tạo, khoa học và công nghệ làm “khâu đột phá” của thời kì mới. Đảng

ta khẳng định “sự phát triển giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ sẽ quyết

định sự thành bại của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước”. Giáo



12



dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu để chấn hưng đất nước. Sau hơn 20 năm

đổi mới, giáo dục và đào tạo góp phần không nhỏ vào thành công đưa Việt Nam

từ một nước nghèo, sống dựa chủ yếu vào viện trợ của nước ngoài, vươn lên

thành nước có thu nhập trung bình. Tuy nhiên, những yếu kém và bất cập trong

giáo dục và đào tạo hiện nay nếu chậm được khắc phục sẽ là trở lực trên con

đường phát triển năng động và bền vững của nước ta. Một trong những yếu kém

đó của giáo dục là phương pháp và phương tiện dạy học chậm đổi mới.

Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI đã khẳng định “Đổi mới toàn diện giáo

dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chấn hưng nền giáo

dục Việt Nam. Những biện pháp cụ thể là: đổi mới cơ cấu tổ chức, nội dung,

phương pháp dạy và học theo hướng “chuẩn hoá, hiện đại hoá, xã hội hoá, phát

huy trí sáng tạo, khả năng vận dụng, thực hành của người học”.

Từ thực tế của ngành giáo dục, cùng với yêu cầu đào tạo nguồn nhân lực

cho sự phát triển đất nước chúng ta đang tiến hành đổi mới phương pháp dạy

học chú trọng đến việc phát huy tính tích cực, chủ động, phát triển năng lực của

HS, coi HS là chủ thể nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của quá trình dạy học.

Nguyên tắc này đã được nghiên cứu, phát triển mạnh mẽ trên thế giới và được

xác định là một trong những phương hướng cải cách giáo dục phổ thông Việt

Nam. Những tư tưởng, quan điểm, những tiếp cận mới thể hiện nguyên tắc trên

đã được chúng ta nghiên cứu, áp dụng trong dạy học các môn học và được coi là

phương pháp dạy học tích cực.

Cốt lõi của đổi mới PPDH là hướng tới hoạt động học tập tích cực, chống

lại thói quen học tập thụ động. Đổi mới nội dung và hình thức hoạt động của GV

và HS, đổi mới hình thức tổ chức dạy học , đổi mới hình thức tương tác xã hội

trong dạy học.

-



Chuyển từ mô hình dạy học truyền thụ một chiều sang mô hình dạy học hợp

tác.



-



Chuyển từ xu hướng dạy học “ lấy GV làm trung tâm” sang quan điểm dạy học “

lấy HS làm trung tâm”, “ hoạt động hóa người học”.



13



-



Dạy cách học, bồi dưỡng năng lực tự học và tự đánh giá.



-



Sử dụng các phương pháp dạy học tích cực (PPDHTC).



-



Kết hợp giữa việc tiếp thu và sử dụng có chọn lọc các phương pháp dạy học hiện

đại với việc khai thác những yếu tố tích cực của các phương pháp dạy học truyền

thống.



-



Tăng cường sử dụng các phương tiện, thiết bị dạy học, lưu ý đến ứng dụng của

công nghệ thông tin và truyền thông (CNTT&TT).

1.3. Dạy học tích cực

1.3.1. Dạy học tích cực - một quan điểm sư phạm

1.3.1.1. Tính tích cực nhận thức

Tính tích cực là một phẩm chất vốn có của con người. Con người không chỉ

tiêu thụ những gì sẵn có trong thiên nhiên mà còn chủ động sản xuất ra những

của cải vật chất cần thiết cho sự tồn tại và phát triển của xã hội, chủ động cải

biến môi trường tự nhiên, cải tạo xã hội. Hình thành và phát triển tính tích cực là

một trong các nhiệm vụ chủ yếu của giáo dục, nhằm đào tạo những con người

năng động, thích ứng và góp phần phát triển xã hội.

Tính tích cực học tập

- Tính tích cực trong hoạt động học tập, về thực chất là tính tích cực nhận

thức và được đặc trưng ở khát vọng hiểu biết, cố gắng trí tuệ và nghị lực cao

trong quá trình chiếm lĩnh tri thức.

- Khác với quá trình nhận thức trong nghiên cứu khoa học, quá trình nhận

thức trong học tập không nhằm phát hiện những điều loài người chưa biết đến

mà nhằm lĩnh hội những tri thức loài người đã tích luỹ được. Tuy nhiên, trong

học tập HS cũng “khám phá” ra những hiểu biết mới đối với bản thân dưới sự tổ

chức và hướng dẫn của GV .

- HS sẽ thông hiểu, ghi nhớ những gì đã nắm được qua hoạt động nỗ lực của

chính mình. Nhưng khi đạt tới một trình độ nhất định thì sự học tập tích cực sẽ mang

tính nghiên cứu khoa học và người học cũng có thể tạo ra những tri thức mới cho

khoa học.



14



Những dấu hiệu của tính tích cực học tập

- Tính tích cực học tập biểu hiện ở những dấu hiệu như:

+ Hăng hái trả lời các câu hỏi của GV đặt ra, tích cực bổ sung các câu trả

lời của bạn.

+ Thích phát biểu ý kiến của mình trước vấn đề nêu ra và có lập luận để

bảo vệ ý kiến đó.

+ Hay nêu thắc mắc, đòi hỏi giải thích cặn kẽ những vấn đề chưa đủ rõ và

đi sâu vào bản chất của sự kiện.

+ Chủ động vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học để nhận thức vấn đề mới,

tập trung chú ý vào vấn đề đang học.

+ Kiên trì hoàn thành các bài tập, không nản chí trước những tình huống

khó khăn.

- Tính tích cực học tập được sắp xếp theo những cấp độ từ thấp đến cao như:

+ Tìm tòi: độc lập giải quyết vấn đề nêu ra, tìm kiếm những cách giải quyết

khác nhau về một vấn đề, được biểu hiện khi HS tự giải bài tập hoá học hay tự

tiến hành thí nghiệm theo hướng nghiên cứu.

+ Sáng tạo: tìm ra cách giải quyết mới, độc đáo, hữu hiệu.

- Tính tích cực trong hoạt động học tập liên quan trước hết đến động cơ

học tập. Động cơ đúng tạo ra hứng thú. Hứng thú là tiền đề của tự giác. Tính tích

cực tạo ra nếp tư duy độc lập. Tư duy độc lập là mầm mống của sáng tạo.

1.3.1.2. Thế nào là dạy học tích cực

- PPDHTC là khái niệm nói tới những PPDH theo hướng phát huy tính tích cực,

chủ động sáng tạo của người học. PPDHTC thực chất là các PPDH hướng tới việc giúp

HS học tập chủ động, tích cực, sáng tạo chống lại thói quen học tập thụ động.

PPDHTC chú trọng đến hoạt động học và vai trò của người học trong quá

trình dạy học theo các quan điểm, tiếp cận mới về hoạt động dạy học như: “Lấy

người học là trung tâm”, “Hoạt động hoá người học”.

Đặc trưng cơ bản của phương pháp dạy học tích cực

PPDHTC có những dấu hiệu đặc trưng cơ bản như:



15



- Dạy học có chú trọng đến việc tổ chức, chỉ đạo để người học trở thành

chủ thể hoạt động, tự khám phá những kiến thức mà mình chưa biết. Trong giờ

học HS được tổ chức, động viên tham gia vào các hoạt động học tập qua đó vừa

nắm được kiến thức, kĩ năng mới vừa nắm được phương pháp nhận thức, học

tập. Trong PPDHTC việc tổ chức để HS học được tri thức, kĩ năng, phương pháp

học tập luôn gắn quyện vào nhau theo quá trình học kiến thức - hoạt động đến

biết hoạt động và muốn hoạt động, qua đó mà phát triển nhân cách người lao

động tự chủ, năng động và sáng tạo. Người học - đối tượng của hoạt động “dạy”

đồng thời là chủ thể của hoạt động “học”- được cuốn hút vào các hoạt động học

tập do GV tổ chức và chỉ đạo thông qua đó tự lực khám phá những điều mình

chưa rõ.

- Dạy học có chú trọng rèn luyện kĩ năng, phương pháp và thói quen tự học,

từ đó tạo cho HS hứng thú, lòng ham muốn, khát khao học tập, khơi dậy những

tiềm năng vốn có trong mỗi HS để giúp họ dễ dàng thích ứng với cuộc sống của xã

hội phát triển. PPDHTC xem việc rèn luyện phương pháp học tập không chỉ là một

biện pháp nâng cao hiệu quả dạy học mà còn là một mục tiêu dạy học.

- Dạy học chú trọng đến việc tổ chức các hoạt động học tập của từng HS,

hoạt động hợp tác trong tập thể nhóm, lớp học thông qua tương tác giữa GV với

HS, giữa HS với HS. Bằng sự trao đổi, tranh luận, thể hiện quan điểm của từng cá

nhân, sự đánh giá nhận xét những quan điểm của bạn mà HS nắm được kiến thức,

cách tư duy, sự phối hợp hoạt động trong một tập thể đồng thời qua hoạt động học

tập dưới hình thức các trò chơi HS được thể hiện năng lực nhận thức về môn Hóa

học của chính bản thân. Lớp học là môi trường giao tiếp thầy - trò, trò - trò, tạo

nên mối quan hệ hợp tác giữa các cá thể trên con đường chiếm lĩnh kiến thức, kĩ

năng. Thông qua thảo luận, tranh luận ý kiến mỗi cá nhân được bộc lộ, khẳng định

hay bác bỏ, qua đó người học nâng mình lên một trình độ mới. Bài học vận dụng

được vốn hiểu biết và kinh nghiệm của HS, lớp học sẽ sinh động và kích thích được

sự hứng thú học tập nhờ sự động viên khích lệ của thầy, của bạn. Học hợp tác làm

tăng hiệu quả học tập nhất là khi xuất hiện nhu cầu phối hợp giữa các cá nhân để



16



hoàn thành nhiệm vụ chung. Trong việc học hợp tác tính cách, năng lực của mỗi

thành viên được bộc lộ, ý thức tổ chức, tình bạn, tinh thần tương trợ được phát

triển, lớp học sẽ trở nên thân thiện hơn.

- Dạy học có sự phối hợp sử dụng rộng rãi các phương tiện trực quan nhất

là các phương tiện kĩ thuật nghe nhìn, máy vi tính, phần mềm dạy học. Tăng tính

năng động cho người học đáp ứng yêu cầu cá thể hoá hoạt động học tập theo

năng lực và nhu cầu của mỗi HS, giúp các em tiếp cận được với các phương tiện

hiện đại trong xã hội phát triển.

- Dạy học có sử dụng các phương pháp kiểm tra đánh giá đa dạng, khách

quan, tạo điều kiện để HS được tham gia tích cực vào hoạt động tự đánh giá và

đánh giá lẫn nhau. Sự thay đổi khâu đánh giá sẽ có tác dụng mạnh mẽ là động

lực để đổi mới phương pháp dạy học theo hướng dạy học tích cực.

Sự đổi mới dạy học theo hướng tích cực

- Sự đổi mới phương pháp dạy học hoá học theo hướng dạy học tích cực

được dựa trên cơ sở quan niệm về tích cực hoá hoạt động học tập của HS và dạy

học hướng vào HS. Dạy học tích cực áp dụng trong dạy học hoá học được đặt ra

do yêu cầu đổi mới mục tiêu giáo dục, đổi mới nội dung môn học và được tiến

hành đồng bộ với đổi mới kiểm tra - đánh giá kết quả học tập của HS.

- Như vậy đổi mới phương pháp dạy học có quan hệ mật thiết với việc đổi

mới mục tiêu, nội dung dạy học và cách thức tổ chức dạy học nhằm phát huy tối

đa tính tích cực, chủ động, sáng tạo của người học.

Đổi mới hoạt động dạy của GV

- Hoạt động dạy học hoá học không chỉ là quá trình truyền thụ kiến thức,

thông báo thông tin mà chủ yếu là quá trình GV thiết kế, tổ chức, điều khiển các

hoạt động học tập của HS để đạt được các mục tiêu cụ thể ở mỗi bài học.

- Như vậy hoạt động cụ thể của GV sẽ là:

+ Thiết kế giáo án (kế hoạch giờ dạy) gồm các hoạt động của HS theo

những mục tiêu cụ thể của mỗi bài học mà HS cần đạt được.

+ Tổ chức các hoạt động trên lớp để HS hoạt động theo cá nhân hoặc theo



17



nhóm như: nêu vấn đề cần tìm hiểu, tổ chức hoạt động tìm tòi, phát hiện tri thức

và hình thành kĩ năng hoá học, kĩ năng nghiên cứu hoá học.

+ Định hướng điều chỉnh các hoạt động của HS: GV có nhiệm vụ làm

chính xác hóa các khái niệm, kết luận, nhận xét về các hiện tượng, bản chất

của quá trình hoá học mà HS đã tự tìm tòi trong hoạt động học tập của mình

và thông báo thêm một số thông tin có liên quan đến bài học mà HS không thể

tự tìm tòi được qua hoạt động trên lớp. Hoạt động chính của GV ngày nay là

hướng dẫn HS chủ động học tập.

-



Thiết kế và thực hiện việc sử dụng các phương tiện trực quan, thí nghiệm hoá

học, hiện tượng thực tế như là nguồn kiến thức để HS tìm tòi, phát hiện những

kiến thức kĩ năng cần nghiên cứu, tiếp thu. Trong quá trình tổ chức, điều khiển

luôn tạo điều kiện để HS được bộc lộ và vận dụng nhiều hơn những kiến thức đã có

của mình để giải quyết các vấn đề học tập và các vấn đề có liên quan đến hoá học

trong đời sống sản xuất.

Đổi mới hoạt động học tập của HS

- Quá trình học tập hoá học không phải là quá trình tiếp nhận một cách

thụ động kiến thức mà chủ yếu là quá trình tự học, tự nhận thức, tự khám phá,

tìm tòi các tri thức hoá học một cách chủ động, tích cực. Đó chính là quá trình tự

phát hiện và giải quyết các vấn đề hay là quá trình tập nghiên cứu khoa học dưới

sự điều khiển của GV. Như vậy trong giờ học, HS được tiến hành các hoạt động

như:

+ Tự phát hiện vấn đề hoặc hiểu được vấn đề, nhiệm vụ do GV nêu ra.

+ Hoạt động cá nhân hoặc hợp tác theo nhóm để tìm tòi phát hiện vấn đề,

giải quyết các vấn đề đặt ra. Tuỳ theo nội dung và nhiệm vụ đặt ra mà HS cần

thực hiện các hoạt động như: dự đoán lý thuyết, làm thí nghiệm, quan sát, mô tả

hiện tượng, giải thích rút ra kết luận hoặc phán đoán, suy luận, đề ra giả thuyết,

trả lời câu hỏi, tìm dữ kiện để khẳng định hoặc bác bỏ giả thuyết đề ra. Nếu

nhiệm vụ đòi hỏi hoạt động nhóm, HS cần chuẩn bị ý kiến, tham gia thảo luận

nhóm rút ra kết luận và báo cáo kết quả hoạt động của cá nhân hoặc nhóm của



18



mình.

+ Vận dụng kiến thức, kĩ năng đã có để giải thích hiện tượng hoá học xảy

ra trong đời sống, sản xuất và giải các dạng bài tập hoá học.

+ Tự đánh giá và đánh giá việc nắm kiến thức của bản thân, của bạn, của nhóm.

Như vậy sự đổi mới phương pháp dạy học hoá học là cần phải làm cho HS

được hoạt động nhiều hơn, tư duy một cách tích cực chủ động hơn trong việc chiếm

lĩnh kiến thức và kỹ năng. HS phải luôn có ý thức và biết cách vận dụng kiến thức

hoá học vào thực tế đời sống. Thông qua các hoạt động điều khiển của GV, HS không

chỉ nắm được các tri thức, kĩ năng hoá học mà còn nắm được kĩ năng hoạt động tìm

tòi, phát hiện vấn đề học tập và kĩ năng hoạt động tích cực để giải quyết vấn đề một

cách linh hoạt và sáng tạo. Cùng với sự đổi mới hoạt động dạy, hoạt động học thì

cũng cần có sự đổi mới hình thức tổ chức dạy học.

Đổi mới hình thức tổ chức dạy học và sử dụng phương tiện dạy học

- Theo yêu cầu đổi mới phương pháp dạy học thì hình thức tổ chức dạy

học cũng cần thay đổi cho phù hợp với các phương pháp dạy học được sử dụng

trong bài học. Hình thức tổ chức lớp học phải đa dạng phong phú cho phù hợp

với việc tìm tòi của cá nhân, hoạt động nhóm và cả lớp. Địa điểm học của HS

không chỉ diễn ra trên lớp mà còn thực hiện ở phòng bộ môn, phòng học đa

phương tiện, ở ngoài trường học…HS thu nhận thông tin qua nhiều kênh khác

nhau như SGK, băng, đĩa, mạng internet…

- Khi lựa chọn các hình thức tổ chức lớp học GV cần chú ý tạo ra môi

trường học tập đảm bảo được mối liên hệ tương tác giữa hoạt động của GV, hoạt

động của HS và nhằm đảm bảo cho HS tiến hành các hoạt động học tập có hiệu

quả, chất lượng cao.

Sử dụng phối hợp, linh hoạt các phương pháp đặc thù của hóa học

- Với yêu cầu đổi mới quá trình dạy học hoá học, GV cần chú ý đến việc

khai thác các yếu tố tích cực trong từng phương pháp dạy học được sử dụng để

tạo điều kiện cho HS được hoạt động nhiều hơn, tích cực, chủ động hơn trong giờ

học. Sử dụng các phương pháp dạy học theo hướng tích cực đóng vai trò quan



19



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (173 trang)

×