1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Quản lý >

II. Vị trí, vai trò của ngành bảo hiểm trong nền kinh tế thị trường

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 80 trang )


16



đình, tránh những nguy cơ, tổn thất do cá nhân và gia đình gây ra. Ngoài ra, bảo

hiểm còn tham gia bảo vệ tài sản cho cá nhân và gia đình, cung cấp một nguồn tài

chính để bù đắp cho những thiệt hại, tổn thất liên quan đến tài sản của họ.

2.1.1.2. Đối với tổ chức: Bảo hiểm nhân thọ cung cấp sản phẩm bảo hiểm cho

những cá nhân đóng vai trò quan trọng đến sự thành công của tổ chức. Trường

hợp những người này qua đời, công ty bảo hiểm thanh toán quyền lợi cho tổ chức

được bảo hiểm. Qua đó, cung cấp một nguồn tài chính đảm bảo cho tổ chức khắc

phục những tổn thất do mất những người chủ chốt như có nguồn tài chính để tìm

kiếm, đào tạo những người thay thế. Ngoài ra, bảo hiểm còn cung cấp nguồn tài

chính cho tổ chức để bù đắp vào những rủi ro, tổn thất xảy ra đối với tài sản của

tổ chức.

Như vậy, bảo hiểm thông qua những sản phẩm và dịch vụ của mình, đã cung

cấp một sự an toàn tài chính cho cả cá nhân và tổ chức kinh tế – xã hội.

2.1.2. Ổn định kinh tế - xã hội:

Rủi ro tổn thất phát sinh làm thiệt hại đến của cải vật chất do con người tạo

ra và chính cả bản thân con người, làm gián đoạn quá trình sinh hoạt của dân cư,

ngưng trệ hoạt động sản xuất của nền kinh tế. Nói chung, nó làm gián đoạn và

giảm hiệu quả của quá trình tái sản xuất xã hội.

Quỹ dự trữ bảo hiểm được tạo lập trước, khắc phục hậu quả nói trên, bằng

cách bù đắp các tổn thất phát sinh nhằm tái lập và đảm bảo tính thường xuyên

liên tục của xã hội. Như vậy, trên phạm vi rộng toàn bộ nền kinh tế xã hội, bảo

hiểm đóng vai trò như một công cụ an toàn và dự phòng đảm bảo khả năng hoạt

động lâu dài và bền vững của mọi chủ thể dân cư và nền kinh tế. Với vai trò đó,

bảo hiểm khi thâm nhập sâu rộng vào mọi lĩnh vực đời sống kinh tế xã hội, đã

phát huy tác dụng vốn có của mình: nâng cao ý thức đề phòng và hạn chế tổn thất

cho mọi thành viên trong xã hội, góp phần ổn định kinh tế - xã hội.

2.1.3. Trung gian tài chính:

Công ty bảo hiểm là một trong những định chế tài chính quan trọng đối với

nền kinh tế. Thông qua các sản phẩm bảo hiểm cung cấp cho công chúng, nó huy

động nguồn vốn nhàn rỗi từ công chúng, tạo lập các quỹ bảo hiểm để thực hiện

các cam kết với khách hàng nhưng tạm thời nhàn rỗi như quỹ dự phòng nghiệp



17



vụ, dự phòng chia lãi...và từ các quỹ này đầu tư trở lại nền kinh tế dưới dạng các

tài sản tài chính như cổ phiếu, trái phiếu, bất động sản, góp vốn, liên doanh liên

kết và cho các tổ chức hoặc cá nhân vay...do vậy, các công ty bảo hiểm đã trở

thành những nhà đầu tư lớn, quan trọng cho các hoạt động kinh tế của nền kinh tế

quốc dân.

Sản phẩm bảo hiểm là một loại dịch vụ đặc biệt, một cam kết đảm bảo cho

sự an toàn. Hơn nữa, nó là một loại hàng hoá trên thị trường tài chính. Doanh

nghiệp bảo hiểm là một đơn vị cung cấp một loại sản phẩm dịch vụ cho xã hội,

tham gia vào quá trình phân phối như là một đơn vị ở khâu cơ sở trong hệ thống

tài chính quốc gia.

Đã có rất nhiều ngôn từ mô tả tầm quan trọng của ngành bảo hiểm đối với

sự phát triển kinh tế xã hội:

“Bảo hiểm là cái khi cần thì không mua được”

Riêng đối với bảo hiểm nhân thọ người ta ví nó như “tay vịn của cầu

thang”

Để đánh giá sự phát triển của bất kỳ nền kinh tế nào của quốc gia nào đó,

người ta thường lấy các chỉ số của 2 ngành bảo hiểm và ngân hàng của quốc gia

đó làm cơ sở quyết định. Ngành Bảo hiểm đến thời điểm hiện tại và ngày càng

khẳng định được vị trí và vai trò không thể thiếu trong bất kỳ nền kinh tế nào,

quốc gia nào. Chúng ta hãy tưởng tượng một ngày nào đó nếu trong cuộc sống

này, xã hội này không có bảo hiểm, chắc chắn một điều là mọi chuyện sẽ đảo lộn

hết, thậm chí phá vỡ hết tất cả những gì chúng ta đã dày công xây dựng hàng

ngàn năm qua.

Đối với ngành bảo hiểm nhân thọ thì do phát triển muộn hơn và nó cũng có

vị trí, vai trò khác hơn so với bảo hiểm phi nhân thọ vì đối tượng tham gia bảo

hiểm chủ yếu là cá thể. Họ tham gia bảo hiểm nhân thọ để được tiết kiệm, bảo vệ

và đầu tư. Họ muốn chuẩn bị cho bản thân và gia đình họ có một kế hoạch tài

chính ổn định và bền vững trong suốt cuộc đời. Một điều mà không thể thiếu

được trong bất kỳ gia đình nào trên thế giới này, duy chỉ có điều là không phải ai

cũng có điều kiện để tham gia được bảo hiểm nhân thọ. Ngoài ra, đối với cả nền

kinh tế của mỗi quốc gia, ngành Bảo hiểm Nhân thọ giúp mang lại một nguồn

vốn rất lớn để tái đầu tư lại nền kinh tế, đây coi như là một khoản đầu tư nội địa.



18



Tại Việt nam, kế hoạch này đến năm 2010, nguồn vốn do ngành bảo hiểm Nhân

thọ tái đầu tư lại nền kinh tế vào khoảng 52.000 tỷ đồng (đến hết năm 2007 con

số này đã là : 44.945 tỷ đồng. Chỉ có bảo hiểm nhân thọ mới giúp họ thực hiện

được mong muốn này và điều này thể hiện được vị trí và vai trò quan trọng của

ngành bảo hiểm nói chung và bảo hiểm nhân thọ nói riêng trong quá trình phát

triển kinh tế –xã hội như thế nào.

2.2. Các yếu tố cạnh tranh trong quá trình phát triển ngành bảo hiểm

Do đặc thù hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm là kinh

doanh sản phẩm vô hình, nên trong quá trình phát triển các doanh nghiệp bảo

hiểm thường cạnh tranh với nhau bởi các yếu tố sau:

- Sản phẩm

- Hệ thống kênh phân phối

- Dịch vụ bán hàng

- Hoạt động marketing

- Công nghệ thông tin

- Nguồn nhân lực

- Đầu tư tài chính .

III. Kinh doanh bảo hiểm ở các nước phát triển và một vài kinh nghiệm

cho phát triển thị trường bảo hiểm ở việt nam

Đối với thị trường bảo hiểm Việt nam, mặc dù Bảo việt là doanh nghiệp

tiên phong, tuy nhiên so với các nước trên thế giới thì chúng ta đi sau họ hàng

trăm năm và như vậy rõ ràng họ hơn hẳn chúng ta về nhiều mặt trong đó phí bình

quân đầu người tham gia bảo hiểm ở các quốc gia này cũng hơn hẳn chúng ta

nhiều lần.

Riêng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, tỷ trọng người dân tham gia bảo

hiểm nhân thọ ở Việt nam mới chỉ chiếm 4,5% dân số, trong khi đó ở Nhật bản tỷ

lệ người dân tham gia Bảo hiểm nhân thọ là: 90%, Singapore là: 50% và ngay tại

Indonesia cũng là: 10%

Một số con số cụ thể về phí bảo hiểm bình quân đầu người tại Việt nam

và các nước phát triển trên thế giới.



19



Tại Việt nam : Phí bảo hiểm bình quân đầu người năm 2007: 208.000

đồng/ người tương đương 13 USD /

người.



Phí BH bình quân đầu người ở một số

nước Đông Nam Á (USD/người)

188



200

150

100

30.5



50

0



54.6

10.5 10.6



Trung

Quoc



Chõu



Thailand



6.1



Philippines



Phớ BH bỡnh quõn đầu

người (USD/người)



Chõu Phi



30.7



Đông và Trung Âu



31.8



Chõu Mĩ Latinh



42



Đông và Nam Á



56.6



Cỏc thị trường mới nổi



46.1



Nguồn: SwissRe Sigma Report No.5/2006



Như vậy, cùng với sự tăng trưởng kinh tế của đất nước, để ngành bảo hiểm

trong nước phát triển tương xứng theo kịp với các nước trong khu vực và thế giới

ngoài việc học tập kinh nghiệm quản lý, hoạt động, triển khai các dịch vụ mới…,

đòi hỏi các doanh nghiệp không ngừng đẩy mạnh công tác tuyên truyền để nâng

cao nhận thức của người dân về bảo hiểm và các sản phẩm bảo hiểm để nâng cao

tỷ lệ người mua bảo hiểm cũng như tăng phí bảo hiểm bình quân đầu người lên

cao góp phần tăng doanh thu phí của ngành, nâng cao tỷ trọng phí trên GDP cao



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

×