1. Trang chủ >
  2. Luận Văn - Báo Cáo >
  3. Kinh tế - Thương mại >

CHƯƠNG 1 : CƠ SỞ LÝ LUẬN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (711.53 KB, 58 trang )


12



mã cổ phiếu ngẫu nhiên cho mô hình của họ và tìm ra rằng một sự kết hợp giữa

beta, quy mô vốn hóa và giá trị giải thích tới 95% lợi suất cổ phiếu.

1.1.2 Mô hình Fama – French ba nhân tố:

Fama và French đã sử dụng cách tiếp cận theo dãy số thời gian của Back,

Jensen và Scholes (1972), với mô hình:



Trong đó :

-



: là lợi suất kỳ vọng của cổ phiếu i

: là lợi suất kỳ vọng của thị trường

: là lãi suất phi rủi ro

SMB : là tỷ suất sinh lợi bình quân của nhóm cổ phiếu có giá trị vốn

hóa thị trường nhỏ trừ đi tỷ suất sinh lợi bình quân của nhóm cổ



-



phiếu có giá trị vốn hóa thi trường lớn.

HML : là chênh lệch tỷ suất sinh lợi bình quân của nhóm cổ phiếu



-



‘giá trị’ so với nhóm cổ phiếu ‘tăng trưởng’.

, , là các hệ số hồi quy trong mô hình phản ánh độ nhạy của các

nhân tố đến lợi suất kỳ vọng của cổ phiếu, hay còn được gọi beta

chứng khoán 3 nhân tố (để phân biệt với beta chứng khoán trong



CAPM).

• Nhân tố thị trường:

Phần chênh lệch còn được gọi là phần bù rủi ro của thị trường (market

premium) hay tỷ suất sinh lợi thị trường vượt trội, tức là phần tăng thêm của tỷ

suất sinh lợi do rủi ro của thị trường mang lại. có thể lấy là lợi suất của chỉ số thị

trường, có thể lấy là lãi suất trúng thầu tín phiếu kho bạc của kỳ hạn có thanh

khoản cao nhất. Rõ ràng thị trường luôn là nhân tố ảnh hưởng mạnh nhất đến

lợi suất cổ phiếu, trong một thị trường ảm đạm thì mỗi cổ phiếu không thể tránh

khỏi nguy cơ thanh khoản thấp dù có các chỉ số cơ bản đẹp đến đâu. Một thị

trường mà nhà đầu tư đang tràn ngập lạc quan, một cổ phiếu cơ bản xấu đôi khi

cũng được đấy giá lên cao hơn rất nhiều so với giá trị thực của nó.





Nhân tố quy mô vốn hóa:



13



SMB ( Small Minus Big) đo lường lợi nhuận tăng thêm của nhà đầu tư khi

đầu tư vào những công ty có giá trị vốn hóa nhỏ. Phần lợi nhuận tăng thêm này

đôi khi còn được gọi là phần bù của quy mô, tức là lợi nhuận do kích cỡ nhỏ của

doanh nghiệp đem lại. SMB là độ đo rủi ro kích cỡ doanh nghiệp, một điều dễ hiểu

rằng, các công ty nhỏ thì có độ nhạy bén lớn hơn các công ty lớn nên dễ đạt được

tốc độ tăng trưởng cao hơn, tuy nhiên rủi ro đối với những công ty này cũng lớn

hơn do nguy cơ bị các đối thủ cạnh tranh lớn đè bẹp, khó tiếp cận nguồn vốn…



Hình 1.1.2: Lợi suất các nhóm cổ phiếu.

Trong mô hình Fama – French, ta chia cổ phiếu thành hai nhóm có vốn hóa thị

trường lớn và vốn hóa thị trường nhỏ bằng cách lấy giá cổ phiếu trung bình mỗi

tháng nhân với số cổ phiếu đang lưu hành của mỗi công ty, sau đó tính trung vị

của chuỗi dãy vốn hóa đó. SMB được tính bằng cách lấy lợi suất trung bình của

30% cổ phiếu có vốn hóa nhỏ trừ đi lợi suất trung bình của 30% cổ phiếu có vốn

hóa lớn. SMB dương thể hiện những cổ phiếu có quy mô nhỏ đem lại lợi suất cao

hơn những cổ phiếu có quy mô vốn hóa lớn. SMB âm cho thấy điều ngược lại, cổ

phiếu có quy mô lớn tốt hơn những cổ phiếu vốn hóa nhỏ. Dữ liệu tại thị trường

chứng khoán Mỹ từ năm 1926 đến 2002 cho thấy phần bù SMB khoảng 3.3%. Ken

French nhận xét hiện tại phần bù SMB có thể dao động trong khoảng 1.5 – 2%.



14





Nhân tố giá trị cổ phiếu:



HML (High Minus Low) đo lường lợi nhuận tăng thêm của nhà đầu tư khi đầu

tư vào những cổ phiếu có chỉ số B/P cao trừ đi cổ phiếu có chỉ số B/P thấp. Nó

còn gọi là phần bù giá trị của cổ phiếu. HML là độ rủi ro giá trị của cổ phiếu, B/P

cao cho thấy thị trường đang đánh giá thấp giá trị của cổ phiếu so với giá trị sổ

sách của nó, điều này có thể bởi công ty đang trong thời kỳ làm ăn thua lỗ khiến

nhà đầu tư mất niềm tin vào giá cổ phiếu. Khi công ty có thông tin lãi trở lại thì

tốc độ tăng trưởng giá có phiếu có thể là rất cao khiến cho lợi suất của nhóm này

cao hơn lợi suất của nhóm B/P thấp. Tuy nhiên nhà đầu tư cũng phải đối mặt với

nguy cơ công ty tiếp tục làm ăn thua lỗ và có thể dẫn tới phá sản.

Trong mô hình Fama – French, ta sắp xếp cổ phiếu có chỉ số B/P từ cao xuống

thấp và chia cổ phiếu thành ba nhóm, nhóm cao là 1/3 số cổ phiếu mà có chỉ số

B/P cao nhất, nhóm trung bình là 1/3 số cổ phiếu tiếp theo và 1/3 số cổ phiếu còn

lại thuộc nhóm thấp. HML được tính bằng cách lấy lợi suất trung bình của 50%

số cổ phiếu thuộc nhóm cao trừ đi lợi suất trung bình của 50% số cổ phiếu thuộc

nhóm thấp . HML dương cho thấy lợi suất của nhóm cổ phiếu giá trị cao hơn lợi

suất của nhóm cổ phiếu tăng trưởng. HML âm cho thấy lợi suất của nhóm cổ

phiếu tăng trưởng cao hơn lợi suất của nhóm cổ phiếu giá trị. Trong khoảng từ

1996 – 2002, phần bù HML tại Mỹ khoảng 5.1%. Ken French cho rằng hiện tại

phần bù này dao động trong khoảng 3.5 – 4%.

Ngoài ba nhân tố trên, nhiều học giả cũng đã kiến nghị đưa thêm một số nhân

tố khác vào mô hình như nhân tố tốc độ tăng trưởng, nhân tố cung tiền…Tại Việt

Nam có thể lợi suất cổ phiếu không chỉ phụ thuộc vào ba nhân tố này, nhưng

trong giới hạn bài viết tôi chọn mô hình ba nhân tố, các nhân tố khác có thể được

xem xét trong các bài sau.

1.2 Thực tiễn áp dụng mô hình Fama – French

Từ khi được công bố mô hình Fama – French đã được nghiên cứu và áp dụng

nhiều nước trên thế giới cho kết quả khả quan.

1.2.1Mô hìmh Fama – French tại những nước phát triển

• Nghiên cứu tại Mỹ của Nima Billou (2004)



15



Tại Mỹ trong bài nghiên cứu “Kiểm định mô hình CAPM và mô hình ba nhân tố

Fama French” năm 2004, tác giả Nima Billou đã so sánh và kiểm tra tính hiệu

quả của hai mô hình CAPM và Fama – French. Trong khoảng thời gian 7/1963

đến 12/2003, =0.3,=0.13, với mức ý nghĩa 5% thì của CAPM là 72% còn của

Fama French là 89%. Nếu mẫu nghiên cứu từ 7/1926 đến 12/2003 thì của CAPM

là 77% còn của Fama French là 88%. Như vậy hai nhân tố quy mô và giá trị rất

có ảnh hưởng trên thị trường chứng khoán Mỹ.





Nghiên cứu tại Nhật của Elhaj Walid và Elhaj Ahlem (2007)



Ở Nhật, trong bài nghiên cứu “Những bằng chứng về khả năng áp dụng mô

hình Fama French lên thị trường chứng khoán Nhật Bản” (2007), hai tác giả

Elhaj Walid và Elhaj Ahlem đã sử dụng chuỗi lợi suất hàng tháng của tất cả

chứng khoán trên Sở giao dịch chứng khoán Tokyo trong khoảng từ 1/2002 đến

9/2007. Kết quả từ nghiên cứu cho thấy ở Nhật Bản nhân tố quy mô cộng ty và tỷ

suất sinh lợi có quan hệ nghịch biến còn nhân tố giá trị và tỷ suất sinh lợi thì

đồng biến. Nhân tố quy mô thể hiện rõ nét ở những chứng khoán có vốn hóa nhỏ.

khoảng 78,2% đối với mô hình Fama French.





Nghiên cứu tại Pháp của Souad Ajili (2005)



Tại Pháp, bài nghiên cứu của Souad Ajili “ Nhân tố quy mô và giá trị - Trường

hợp của nước Pháp” (2005) cũng cho thấy kết quả từ mô hình Fama French tốt

hơn so với mô hình CAPM. tương ứng là 34.22% và 11.2%. Với mô hình Fama

French khi hồi quy dữ liệu chéo thì chỉ có nhân tố quy mô là có ý nghĩa thống kê,

khi hồi quy dữ liệu chuỗi thời gian thì nhân tố SMB và HML đều có ý nghĩa thống

kê.

Nhìn chung ở hầu hết các nước phát triển mô hình Fama French đều cho kết quả

khả quan với mức độ giải thích lớn hơn mô hình CAPM.

1.2.2 Mô hình Fama – French tại những nước đang phát triển.

• Nghiên cứu tại Ấn Độ của Gregory Connor và Sanjay Sehgal (2001):

Trong bài nghiên cứu “Kiểm định mô hình Fama và French ở Ấn Độ” hai tác giả

Gregory Connor và Sanjay Sehgal lấy dữ liệu từ tỷ suất sinh lợi cuối tháng của



16



364 cổ phiếu từ 6/1989 đến 3/1999 trên thị trường chứng khoán Ấn Độ. trung

bình trong mô hình Fama French là 84.22% còn trong mô hình CAPM là 75%.

Nghiên cứu này cho thấy việc chạy mô hình hồi quy tuyến tính của hai mô hình

này có thể giải thích và dự đoán được tỷ suất sinh lợi của các chứng khoán và

danh mục của chứng khoán tại thị trường Ấn Độ.





Nghiên cứu tại Thái Lan của Nopbhannon Homsud (2009):



Ở Thái Lan, bài nghiên cứu “Một nghiên cứu về mô hình ba nhân tố Fama và

French” sử dụng số liệu trên thị trường chứng khoán Thái Lan từ 7/2002 đến

5/2007, bao gồm 421 cổ phiếu chia làm 6 nhóm: BH, BM, BL, SH, SM, SL. Kết quả

bài nghiên cứu cho thấy việc thêm các biến quy mô công ty và biến giá trị vào mô

hình CAPM để trở thành mô hình Fama – French cho thấy khả năng giải thích tỷ

suất sinh lợi vượt trội hàng tháng của các danh mục tốt hơn mô hình CAPM với

lần lượt là 62.42% và 29.47%.





Nghiên cứu ở Đài Loan của Chun – Wei Huang (2010):



Năm 2010 trong bài nghiên cứu “Áp dụng mô hình Fama – French ba nhân tố

vào thị trường chứng khoán Đài Loan” tác giả Chun – Wei Huang cho rằng mô

hình CAPM có thể áp dụng vào thị trường chứng khoán Đài Loan vì nhân tố rủi ro

thị trường có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tỷ suất sinh lợi chứng khoán. Mô hình

Fama French thì chỉ có hai biến là rủi ro thị trường và quy mô là có ý nghĩa thống

kê, còn biến giá trị thì không. Do đó, mô hình Fama French ba nhân tố không thể

áp dụng hoàn toàn tại thị trường chứng khoán nước này.

Nhìn chung, tại các nước đang phát triển tỷ suất sinh lợi của chứng khoán tác

động rất lớn bởi nhân tố rủi ro thị trường do thị trường chứng khoán tại những

nước này còn non trẻ, nhà đầu tư chủ yếu là nhà đầu tư cá nhân nhều khi đầu tư

chứng khoán theo tâm lý bầy đàn. Hai nhân tố SMB và HML cũng có ảnh hưởng

đến tỷ suất sinh lợi nhưng không ảnh hưởng lớn bằng tại các nước phát triển,

tuy nhiên việc có thêm hai biến này góp phần giả thích cao hơn cho tỷ suất sinh

lợi chứng khoán.



17



1.2.3 Mô hình Fama – French tại Việt Nam

Thi trường chứng khoán Việt Nam chính thức đi vào hoạt động từ

28/7/2000, chặng đường từ đó đến nay còn là quá ít so với các nước phát triển

và nhiều nước trong khu vực khi mà thị trường chứng khoán đã manh nha hoạt

động từ hơn một thế kỷ nay. Tuy vậy thị trường chứng khoán Việt Nam đã trải

qua nhiều thăng trầm lúc phát triển bùng nổ vào hạng bậc nhất thế giới lúc ảm

đạm đìu hiu giá mỗi cổ phiếu đựợc ví với một mớ rau ngoài chợ. Khi mới đi vào

hoạt động số cổ phiếu lên sàn còn ít kết hợp với nhiều thông tin vĩ mô tích cực

của nền kinh tế Việt Nam, cầu cổ phiếu lớn hơn cung rất nhiều đẩy giá cổ phiếu

lên cao ngút trời hơn giá trị thực rất nhiều lần. Nhà đầu tư đua nhau đổ tiền vào

thị trường khiến chỉ số Vnindex liên tục tăng điểm và đạt kỷ lục 1170.07 điểm vào

ngày 12/3/2007.

1200

1000

800

600

400

200

0

500



1000



1500



VNINDEX



Hình 1.2.3: Chỉ số giá Vnindex.

Giá cổ phiếu đã gấp nhiều lần giá trị thực kết hợp với cuộc khủng hoảng kinh tế

thế giới lan rộng Vnindex đã liên tục giảm điểm có lúc về dưới mức 300 điểm, nhà

đầu tư bỏ chạy khỏi thị trường trong hoảng loạn. Với hy vọng cuộc khủng hoảng

hiện đã qua đáy thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay đã có những dấu

hiệu tích cực hơn nhưng hiện tại thị trường vẫn dao động lình xình quanh mức

500 điểm.

Trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay đa phần là các nhà đầu tư nhỏ lẻ

mua bán cổ phiếu theo tâm lý bầy đàn và các khuyến nghị của công ty chứng khoán



18



mà việc định giá cổ phiếu bằng phương pháp chiết khấu dòng tiền hoặc phương

pháp tương đối. Những phương pháp này tỏ ra kém linh hoạt với chuyển biến của

thị trường đặc biệt trong giai đoạn hiện nay khi mà nhiều công ty không trả cổ tức,

dòng tiền hoạt động âm và một thực tế là đa phần nhà đầu tư trong nước bị các nhà

đầu tư nước ngoài ‘đánh bại’. Năm 2008, tại Việt Nam tác giả Đinh Trọng Hưng có

nghiên cứu việc áp dụng mô hình Fama – French trong việc định giá các danh mục

đầu tư. Chuỗi dữ liệu tác giả sử dụng từ 1/1/2005 đến 30/6/2008, mẫu nghiên cứu

khoảng 26 cổ phiếu. Tác giả rút ra kết luận nhân tố HML không ảnh hưởng đến tỷ

suất sinh lợi của 4 danh mục SM, BM, BL, BH. Còn nhân tố SMB không ảnh

hưởng đến những cổ phiếu vốn hóa nhỏ như SL, SM, SH. Sau quá trình chạy mô

hình tác giả đưa ra kết luận các danh mục đều bị định giá cao. Tuy nhiên dữ liệu

được lấy của tác giả trong thời gian ngắn, trong thời gian đó thị trường bị chi phối

rất nhiều bởi yếu tố tâm lý. Vì vậy tôi thiết nghĩ cần một nghiên cứu cập nhật hơn,

dãy dữ liệu được lấy dài hơn nhất là trong điều kiện hiện nay khi tâm lý nhà đầu tư

đã ổn định hơn và thị trường chứng khoán Việt Nam cần một sự đổi mới về các

phương pháp đánh giá cổ phiếu để phát triển bền vững hơn.

1.3 Cơ sở lý luận của bộ lọc cổ phiếu

Trên thị trường chứng khoán có rất nhiều mã cổ phiếu được giao dịch, có

những cổ phiếu tốt nhưng chưa được nhà đầu tư quan tâm, ngược lại có những

cổ phiếu mà giá đã vượt quá giá trị thực nhưng vẫn đựợc đẩy giá lên cao nữa do

tâm lý hoặc có yếu tố đầu cơ. Vậy làm sao để một nhà đầu tư có thể lựa chọn

được những cổ phiếu tốt nhưng giá cả vẫn còn hợp lý ? Trong bài viết này tôi sẽ

đưa ra một phương pháp dùng phân tích cơ bản để lựa chọn những cổ phiếu tốt

để đầu tư và kết hợp việc đánh giá giữa phương pháp này với mô hình Fama –

French.

Trên thế giới hiện tại có hai phương pháp lọc cổ phiếu phổ biến và được cho là

đem lại hiệu quả hơn cả là GARP và CANSLIM. Ở đây tôi sẽ giới thiệu bộ lọc cổ

phiếu GARP vì nó dễ áp dụng tại Việt Nam hơn nhưng vẫn cho những kết quả rất

tốt, đồng thời tôi cũng sẽ có những cải tiến bộ lọc sao cho đúng với tình hình phát

triển của thị trường chứng khoán Việt Nam. Như đã biết trên thị trường chứng

khoán có thể chia ra làm hai nhóm cổ phiếu tăng trưởng và giá trị, cổ phiếu tăng

trưởng là những cổ phiếu biến động mạnh hơn so với biến động của thị trường



19



và ngược lại cổ phiếu giá trị thì ít biến động hơn so với thị trường. GARP là từ

viết tắt của Growth at a reasonable price có nghĩa là tăng trưởng tại mức giá

hợp lý. Những cổ phiếu thuộc tiêu chí GARP là kết hợp giữa hai nhóm tăng

trưởng và giá trị, nó tìm kiếm những công ty mà được định giá thấp và có tiềm

năng tăng trưởng lớn. Dưới đây là sơ đồ so sánh giữa GARP và hai nhóm cổ

phiếu:



Hình 1.3: Mô hình GARP

Giống với các nhà đầu tư tăng trưởng, nhà đầu tư GARP quan tâm tới viễn cảnh

tăng trưởng của một công ty, họ muốn nhìn thấy thu nhập của công ty trong một

vài năm trước, điều đó tạo điều kiện cho dòng thu nhập chắc chắn trong tương

lai. Nhưng khác với nhà đầu tư tăng trưởng, nhà đầu tư GARP không coi trọng tỷ

lệ tăng trưởng cao đột biến, ví dụ như tử 25 – 50%. Những công ty trong nhóm

này mang đến quá nhiều rủi ro và không thể dự đoán được. Một tỷ lệ tăng trưởng

an toàn và thực tế hơn nên nằm trong khoảng từ 10 – 20%. Một chỉ số quan

trọng khác là ROE, ROE cao và tăng trưởng cao hơn mức trung bình của ngành

cho thấy một công ty thực sự tốt. Các chỉ số quan trọng khác là P/E, P/B và PEG.

EPS (Earning Per Share) là lợi nhuận (thu nhập) trên mỗi cổ phiếu.

Đây là phần lợi nhuận mà công ty phân bổ cho mỗi cổ phần thông thường đang

được lưu hành trên thị trường. EPS được sử dụng như một chỉ số thể hiện khả

năng kiếm lợi nhuận của doanh nghiệp, được tính bởi công thức:



20



EPS = (Thu nhập ròng - cổ tức cổ phiếu ưu đãi) / lượng cổ phiếu bình quân đang

lưu thông.

Trong việc tính toán EPS, sẽ chính xác hơn nếu sử dụng lượng cổ phiếu lưu hành

bình quân trong kỳ để tính toán vì lượng cổ phiếu thường xuyên thay đổi theo

thời gian. Tuy nhiên trên thực tế người ta thường hay đơn giản hoá việc tính

toán bằng cách sử dụng số cổ phiếu đang lưu hành vào thời điểm cuối kỳ. Có thể

làm giảm EPS dựa trên công thức cũ bằng cách tính thêm cả các cổ phiếu chuyển

đổi, các bảo chứng (warrant) vào lượng cổ phiếu đang lưu thông.

EPS thường được coi là biến số quan trọng duy nhất trong việc tính toán giá cổ

phiếu. Đây cũng chính là bộ phận chủ yếu cấu thành nên tỉ lệ P/E. Một khía cạnh

rất quan trọng của EPS thường hay bị bỏ qua là lượng vốn cần thiết để tạo ra thu

nhập ròng (net income) trong công thức tính trên.

Hai doanh nghiệp có thể có cùng tỷ lệ EPS nhưng một trong hai có thể có ít cổ

phần hơn tức là doanh nghiệp này sử dụng vốn hiệu quả hơn. Nếu như các yếu tố

khác là cân bằng thì rõ ràng doanh nghiệp này tốt hơn doanh nghiệp còn lại. Vì

doanh nghiệp có thể lợi dụng các kỹ thuật tính toán để đưa ra con số EPS hấp

dẫn nên các nhà đầu tư cũng cần hiểu rõ cách tính của từng doanh nghiệp để

đảm bảo "chất lượng" của tỉ lệ này. Tốt hơn hết là không nên dựa vào một thước

đo tài chính duy nhất mà nên kết hợp với các bản phân tích tài chính và các chỉ số

khác.

Hệ số giá trên thu nhập (P/E) là một trong những chỉ số phân tích quan

trọng trong quyết định đầu tư chứng khoán của nhà đầu tư. Thu nhập từ cổ

phiếu sẽ có ảnh hưởng quyết định đến giá thị trường của cổ phiếu đó. Hệ số P/E

đo lường mối quan hệ giữa giá thị trường (Market Price - P) và thu nhập của mỗi

cổ phiếu (Earning Per Share - EPS) và được tính như sau:

Trong đó giá thị trường P của cổ phiếu là giá mà tại đó cổ phiếu đang được mua

bán ở thời điểm hiện tại; thu nhập của mỗi cổ phiếu EPS là phần lợi nhuận ròng

sau thuế mà công ty chia cho các cổ đông thường trong năm tài chính gần nhất.

P/E cho thấy giá cổ phiếu hiện tại cao hơn thu nhập từ cổ phiếu đó bao nhiêu lần,

hay nhà đầu tư phải trả giá cho một đồng thu nhập bao nhiêu. P/E được tính cho



21



từng cổ phiếu một và tính trung bình cho tất cả các cổ phiếu và hệ số này thường

được công bố trên báo chí.

Nếu hệ số P/E cao thì điều đó có nghĩa là người đầu tư dự kiến tốc độ tăng cổ tức

cao trong tương lai; cổ phiếu có rủi ro thấp nên người đầu tư thoả mãn với tỷ

suất vốn hoá thị trường thấp; dự đoán công ty có tốc độ tăng trưởng trung bình

và sẽ trả cổ tức cao.

Hệ số P/E rất có ích cho việc định giá cổ phiếu. Giả sử người đầu tư có cổ phiếu

AAA không được giao dịch sôi động trên thị trường, vậy cổ phiếu đó có giá bao

nhiêu là hợp lý? Lúc đó cần nhìn vào hệ số P/E được công bố đối với nhóm các

loại cổ phiếu tương tự với cổ phiếu AAA, sau đó nhân thu nhập của công ty với hệ

số P/E sẽ cho chúng ta giá của loại cổ phiếu AAA.

Chỉ số P/B (Price-to-Book ratio – Giá/Giá trị sổ sách) là tỷ lệ được sử dụng

để so sánh giá của một cổ phiếu so với giá trị ghi sổ của cổ phiếu đó. Tỷ lệ này

được tính toán bằng cách lấy giá đóng cửa hiện tại của cổ phiếu chia cho giá trị

ghi sổ tại quý gần nhất của cổ phiếu đó.

Công thức tính như sau:



Đối với các nhà đầu tư, P/B là công cụ giúp họ tìm kiếm các cổ phiếu có giá thấp

mà phần lớn thị trường bỏ qua.

Nếu một doanh nghiệp đang bán cổ phần với mức giá thấp hơn giá trị ghi sổ của

nó (tức là có tỷ lệ P/B nhỏ hơn 1), khi đó có hai trường hợp sẽ xảy ra: hoặc là thị

trường đang nghĩ rằng giá trị tài sản của công ty đã bị thổi phồng quá mức, hoặc

là thu nhập trên tài sản của công ty là quá thấp.

Nếu như điều kiện đầu tiên xảy ra, các nhà đầu tư nên tránh xa các cổ phiếu này

bởi vì giá trị tài sản của công ty sẽ nhanh chóng được thị trường điều chỉnh về

đúng giá trị thật.



22



Còn nếu điều thứ hai đúng, thì có khả năng lãnh đạo mới của công ty hoặc các

điều kiện kinh doanh mới sẽ đem lại những triển vọng kinh doanh cho công ty,

tạo dòng thu nhập dương và tăng lợi nhuận cho các cổ đông.

Ngược lại, nếu một công ty có giá thị trường của cổ phiếu cao hơn giá trị ghi sổ

thì đây thường là dấu hiệu cho thấy công ty làm ăn khá tốt, thu nhập trên tài sản

cao.

Chỉ số P/B chỉ thực sự có ích khi nhà đầu tư xem xét các doanh nghiệp có mức độ

tập trung vốn cao hoặc các công ty tài chính, bởi giá trị tài sản của các công ty

này tương đối lớn.

ROE là tỷ số lợi nhuận ròng trên vốn chủ sở hữu (Return on common equyty)

ROE là tỷ số quan trọng nhất đối với các cổ đông, tỷ số này đo lường khả năng

sinh lợi trên mỗi đồng vốn của cổ đông thường.

Công thức:

ROE = Lợi nhuận ròng dành cho cổ đông thường/Vốn cổ phần thường

Chỉ số này là thước đo chính xác để đánh giá một đồng vốn bỏ ra và tích lũy tạo

ra bao nhiêu đồng lời. Hệ số này thường được các nhà đầu tư phân tích để so

sánh với các cổ phiếu cùng ngành trên thị trường, từ đó tham khảo khi quyết

định mua cổ phiếu của công ty nào.

Tỷ lệ ROE càng cao càng chứng tỏ công ty sử dụng hiệu quả đồng vốn của cổ

đông, có nghĩa là công ty đã cân đối một cách hài hòa giữa vốn cổ đông với vốn đi

vay để khai thác lợi thế cạnh tranh của mình trong quá trình huy động vốn, mở

rộng quy mô. Cho nên hệ số ROE càng cao thì các cổ phiếu càng hấp dẫn các nhà

đầu tư hơn.

Khi tính toán được tỷ lệ này, các nhà đầu tư có thể đánh giá ở các góc độ cụ thể

như sau:

- ROE nhỏ hơn hoặc bằng lãi vay ngân hàng, vậy nếu công ty có khoản vay ngân

hàng tương đương hoặc cao hơn vốn cổ đông, thì lợi nhuận tạo ra cũng chỉ để trả

lãi vay ngân hàng.



Xem Thêm
Tải bản đầy đủ (.docx) (58 trang)

×