Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.6 MB, 154 trang )
79
trực tiếp 806 BN (chiếm 99%), chỉ có 8 BN (chiếm 1%) đặt NKQ bằng ống
soi mềm (FOB)
724 BN (chiếm 88,9%) được đặt ống NKQ dễ và 90 BN (chiếm
11,1%) đặt ống NKQ khó.
Những can thiệp trong khi đặt NKQ bao gồm:
+ Sử dụng ống mũi hầu và/hoặc ống miệng hầu có 28 bệnh nhân
(chiếm 3,5%).
+ Sử dụng Mask TQ hiệu quả trên 2 BN do hô hấp bằng Mask không
hiệu quả, mặc dù đã dùng ống mũi-hầu hoặc miệng-hầu, sau đó được tiến
hành đặt NKQ đường mũi thành công bằng đèn soi TQ với gây tê thêm tại
chỗ và hỗ trợ của panh Magill.
3.8.2. Đối với loại dự kiến NKQ khó vừa.
Bảng 3.27 cho thấy trong sè 150 BN được dự kiến NKQK vừa, được tiến
hành thử Test an thần bằng propofol cho kết quả như sau:
- Đặt NKQ khó 50 BN chiếm 33,3% (trong đó khó vừa 24 BN chiếm 16%,
khó thực sự 25 BN chiÕm 16,6%, thất bại 1 BN chiếm 0,7%).
- Đặt NKQ dễ 100 BN chiếm 66,7%
Kết quả các biện pháp can thiệp đặt NKQ nh sau:
- 114 BN có độ Cormack&Lehane 1&2, tiên lượng dễ đặt NKQ
(chiếm 76,0%), tiếp tục gây mê, giãn cơ không khử cực, tác dụng ngắn,
Esmeron 0,6mg/kg và đặt NKQ bằng đèn soi TQ. Kết quả thành công trên
113 BN, 1 BN phải dùng ống soi mềm qua Mask nội soi dễ dàng.
- 20 BN (chiếm 13,3%) phải đặt ống mũi hầu hoặc miệng hầu do có cản
trở vùng hầu họng, cho hiệu quả tốt.
- 2 BN sau khi tiêm Propofol, thở kém, hô hấp bằng Mask không hiệu
quả, mặc dù đã sử dụng các phương pháp thông thường nh thay đổi tư thế,
80
nâng góc hàm, đặt ống mũi-hầu hoặc miệng –hầu. Sử dông Mask TQ dễ dàng
và hô hấp có hiệu quả, sau đó đặt ống NKQ bằng đèn soi TQ thành công.
- 1 BN được đặt Mask TQ rất khó khăn nhưng sau đó có hiệu quả, sau khi
không thể hô hấp bằng Mask là trường hợp bị viêm XHD sau tia xạ, mặc dù các
yếu tố dự kiến NKQK gần nh bình thường, vùng dưới cằm sờ cứng thành mảng.
Đặt NKQ bằng ống soi mềm dễ dàng khi BN đã thở tốt trở lại.
- 7 BN (chiếm 4,7%) được đặt ống NKQ bằng tê tại chỗ bằng Lidocaine
10% xịt tại chỗ hầu TQ qua đèn soi TQ sau liều thử test Propofol. Trong đó 6
BN thuộc chấn thương, gãy xương phức tạp hoặc có chảy máu nhiều trong
miệng. Được đặt ống NKQ ngay trong lúc kiểm tra khả năng đặt ống, cho kết
quả tốt.
- Trong sè 6 BN dùng ống soi mềm (FOB) để đặt NKQ, có 5 trường hợp
dễ dàng sau khi kiểm tra bằng đèn soi TQ có độ Cormack&Lehane 3&4, tiên
lượng đặt NKQ khó, chỉ có 1 trường hợp do không đặt được NKQ bằng đèn
soi TQ (đã nói ở trên).
- (*)1 bệnh nhân (chiếm 0,7%) sau khi tiêm Propofol, bóp bóng không
hiệu quả, đặt Mask TQ cũng không hiệu quả, bão hòa ôxy tụt < 80%, phải
mở KQ cấp cứu ngay, an toàn, không để lại di chứng gì. BN bị chấn thương,
gãy xương phức hợp XHT 2 bên, gò má, cung tiếp và có tổn thương phần
mềm vùng sàn miệng.
3.8.3. Đối với loại dự kiến NKQ rất khó.
Bảng 3.27 cho thấy có 41 BN được dự kiến đặt NKQ rất khó được xử trí
bằng các biện pháp can thiệp nh sau:
- 2 BN được đặt NKQ bằng tê tại chỗ, dùng đèn soi TQ có hỗ trợ của
panh Magill, cho kết quả tốt
- 37 bệnh nhân được đặt ống NKQ bằng ống soi mềm(FOB), có 35 BN
thành công. Có 2 trường hợp bị thất bại trong quá trình thao tác, phải hỗ trợ
81
hô hấp bằng Mask TQ và mở khí quản cấp cứu
- (*) 1 BN được chuyển từ phòng khám bệnh vào khoa GM trong tình
trạng ngừng tim, ngừng thở do có khối u lớn dưới hàm phải, bội nhiễm chèn
Ðp khí quản, được cấp cứu tại chỗ, bóp bóng Mask không hiệu quả, phải đặt
nhanh Mask TQ, bóp bóng qua Mask TQ hiệu quả, hồi sinh tim đồng thời
bằng xoa bóp tim ngoài lồng ngực và tiêm trực tiếp Adrenaline tĩnh mạch và
buồng tim, sau đó tim đập trở lại. sau khoảng 10 đến 15 phót BN tự thở trở
lại, đặt ống NKQ bằng ống soi mềm dễ dàng, nhanh chóng và tiến hành mổ
cấp cứu. BN ra viện không để lại di chứng gì
- 1 BN phải chỉ định MKQ ngay từ đầu vì bị đa chấn thương nặng vùng
hàm mặt, khó thở khi vào viện, phải vừa hồi sức, vừa mở KQ, và mổ cấp cứu
ngay, không có biến chứng gì.
3.9. thất bại và biến chứng
3.9.1. Thất bại.
Thất bại ở 3 BN (chiếm 0,3%), trong đó đặt NKQ bằng soi mềm 2 BN
và Test an thần Propofol 1 BN, cả 3 trường hợp này đều gây tụt bão hòa ôxy
nặng, SpO2< 80%, phải hô hấp bằng Mask TQ và đồng thời MKQ cấp cứu.
Tuy nhiên các BN này đều được xử lý MKQ kịp thời, an toàn, không có biến
chứng hay di chứng gì sau mổ.
3.9.2. Biến chứng.
Tỷ lệ biến chứng từ nhẹ là gãy răng đến nặng là tụt bão hòa ôxy< 80%,
phải MKQ cấp cứu gồm 20 BN, chiếm 2% nh sau:
- 10 BN bị tụt bão hòa ô xy, trong đó 3 BN SpO 2 < 80%, cả 3 trường
hợp này đều xảy ra ở các BN phải MKQ cấp cứu.
- 6 BN chảy máu trong khi thao tác, 4 trường hợp là chấn thương, có
gãy xương HT hoặc HD, khi đưa lưỡi đèn soi TQ vào miệng, chảy máu chỉ
tạm thời, số lượng không đáng kể, cầm lại ngay sau khi cố định xương gãy. 2
82
BN chảy máu mũi khi luồn ống NKQ hoặc luồn ống soi mềm qua mũi. chảy
máu chỉ thoáng qua, tự cầm được ngay.
- 4 BN bị gãy răng trong khi thao tác đặt ống NKQ: 3 BN thuộc bệnh lý
và 1 BN thuộc chấn thương, 2 BN trong nhóm dự kiến khó vừa và 2 trong
nhóm dự kiến NKQ dễ. Cả 4 trường hợp đều có phân loại Cormack&Lehane
3 hoặc 4 và đều do do đèn soi TQ thao tác khi đặt ống.
- Trong NC của chúng tôi không có trường hợp nào có biến chứng nặng
nề nh di chứng thần kinh, mất não, ngừng tim… do thiếu ôxy. Không có BN
tử vong.
83
CHƯƠNG 4
Bàn luận
Tai biến và tử vong xảy ra thường xuyên nhất trong gây mê là có liên
quan đến hô hấp, nhất là khó khăn trong đặt ống NKQ [46],[55],[[74]. Trong
vòng vài thập kỷ gần đây, mặc dù có nhiều tiến bộ về kỹ thuật và phương tiện
kiểm soát đường thở như ống soi mềm phế quản, Mask TQ, Combitube,
Lightwand… nhưng thất bại trong việc duy trì đường thở thông suốt sau khi
khởi mê toàn thân vẫn là một thách thức lớn với những người làm gây mê hồi
sức. Trong thực hành GM, để kiểm soát đường thở, việc đặt ống NKQ bằng
đèn soi TQ trực tiếp là phương pháp được chọn lựa trong hầu hết các trường
hợp GM toàn thân và là biện pháp an toàn nhất [9],[11],[47],[56],[74],[114].
Với đa số các bệnh nhân, việc đặt NKQ thường dễ dàng, tuy nhiên có thể gặp
khó khăn trong một số trường hợp bệnh lý, làm biến đổi giải phẫu, sinh lý bình
thường của đường hô hấp trên, ngay cả ở những bệnh nhân có vẻ như bình
thường [47].
Trong nghiên cứu này, chúng tôi lần lượt bàn luận đến vấn đề dự kiến
NKQK trong hàm mặt dùa theo sơ đồ nhận biết đường thở khó trên lâm
sàng( Algorithm of clinical recognition of difficult airway) của Mallampati
trên cơ sở phối hợp dấu hiệu Mallampati với các yếu tố nguy cơ (độ mở
miệng, khoảng giáp cằm, phân độ bellhouse, nuốt nước bọt khó…) [56]( sơ
đồ 1.1), đánh giá hiệu quả của một số yếu tố dự kiến NKQK, tỷ lệ NKQK
thực tế trong hàm mặt, liên quan bệnh lý hàm mặt với NKQK và bàn luận
về kết quả của một số phương pháp xử trí đặt NKQ được áp dụng trong
lĩnh vực gây mê phẫu thuật hàm mặt cho người lớn tại Bệnh viện Răng
hàm mặt Trung ương Hà Nội. Từ kết quả nghiên cứu và các tài liệu tham
84
khảo chúng tôi xây dựng và đưa ra một đề xuất về trình tự xử trí NKQK
trong lĩnh vực gây mê hàm mặt.
4.1. Liên quan NKQK với yếu tố nhân khẩu và bệnh lý.
4.1.1 Tuổi.
Xét về phân bố bệnh tật trong lĩnh vực phẫu thuật hàm mặt với lứa tuổi,
bảng 3.1 cho thấy gặp nhiều nhất là dưới 30 tuổi, chiếm 53,7%, và tuổi trung
bình là 32,1± 13,1 tuổi.
So sánh với NC của Nguyễn Toàn Thắng [11] có tuổi trung bình 46,31 ±
16,05 tuổi và lứa tuổi từ 30 đến 60 chiếm nhiều nhất (chiếm 61,1%) là cao
hơn so với NC của chúng tôi về cả độ tuổi hay gặp và tuổi trung bình, có lẽ do
tỷ lệ tai nạn giao thông thường gặp ở người trẻ tuổi đối với bệnh lý HM.
Xét liên quan giữa nhóm tuổi với NKQK, trên mô hình hồi quy đa biến
logistic, bảng 3.22 cho thấy tuổi càng cao thì nguy cơ đặt NKQK càng tăng.
Những người trong độ tuổi từ 30 đến thấp hơn 60 có xác suất đặt NKQK cao
gấp 1,7 lần khả năng đặt NKQK ở những người dưới 30 (OR= 1,7; 95% CI:
1,1-2,7), và những người thuộc nhóm trên 60 tuổi có khả năng đặt NKQK cao
gấp 2,7 lần người dưới 30 tuổi (OR= 2,7: 95% CI:1,1-6,3). Sự khác biệt có ý
nghĩa thống kê với khoảng tin cậy không chứa giá trị 1.
Tỷ lệ NKQK gặp nhiều hơn ở người có tuổi cao phù hợp với kết quả
nghiên cứu của các tác giả khác: Nguyễn Toàn Thắng trên 558 bệnh nhân,
phẫu thuật tiêu hóa (2003) có tỷ lệ NKQK cao hơn ở độ tuổi trung bình
(51,98 ± 17,55) so với độ tuổi trung bình (45,8 ± 15,83) có ý nghĩa thống kê
với p <0,05 [11]. Langeron O trên 1644 BN tại bệnh viện phẫu thuật đa khoa
CHU Pitié Salpêtrière Paris, Pháp (2000) [123], đã nhận xét tỷ lệ NKQK ở
lứa tuổi trên 51 tuồi có nguy cơ gặp NKQK cao hơn ở lứa tuổi trẻ hơn có ý
nghĩa thống kê với OR=1,51 (0,06-2,25: p=0,002).
85
Giải thích tỷ lệ NKQK cao hơn ở người tuổi cao có lẽ do một số yếu tố
nh hạn chế vận động đầu cổ, hạn chế há miệng, bệnh lý về răng nh răng khấp
khểnh, lung lay, rụng thường gặp ở nhóm người cao tuổi hơn [11] [46],[57].
4.1.2. Giới.
Trong nghiên cứu của chúng tôi, tỷ lệ bệnh tật gặp nhiều ở nam giới hơn
so với nữ giới. Nam chiếm 69,9%, nữ chiếm 30,1% (bảng 3.2). Xét về mối
liên quan giữa giới tính với mức độ khó khi đặt NKQ, bảng 3.22 cho thấy
khả năng đặt NKQK ở nam giới cao gấp 1,6 lần xác suất đặt NKQK ở nữ giới
(OR=1,6). Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa về mặt thống kê với
khoảng tin cậy 95% của OR là 0,9-2,8.
Kết luận này trùng hợp với nghiên cứu của các tác giả khác như
Langeron O nhận xét là tỷ lệ NKQK ở nam cao hơn ở nữ, có ý nghĩa thống kê
với OR= 1,5 (1,16-2,12:p=0,002) [123], của Karkuti (13,6% và 5%) và
Nguyễn Toàn Thắng cho thấy nam giới (11,91%) cao hơn một cách có ý
nghĩa so với nữ (5,53%) với p <0,05[11].
4.1.3. Cân nặng- chiều cao.
Kết quả nghiên cứu về chiều cao tại biểu đồ 3.1 cho thấy chiều cao
trung bình của mẫu nghiên cứu là 160 ± 0,3 cm và cân nặng tại bảng 3.3 cho
thấy cân nặng trung bình trong mẫu nghiên cứu là 52,6kg ± 8,5 kg
Kết quả này phù hợp với NC của Nguyễn Toàn Thắng (chiều cao trung
bình (159,88 ± 6,1 cm) và cân nặng trung bình (48,95 ± 6,83) và cũng phù
hợp với hằng số của người Việt Nam [13].
Xét về cân nặng và chiều cao, trên mô hình hồi quy Logistic (bảng 3.22)
cho thấy những người có cân nặng hơn và cao hơn sẽ Ýt có nguy cơ đặt
NKQK hơn những người có cân nặng và chiều cao thấp hơn (cân nặng: OR=
86
0,6 và 0,8 với 95% CI là: 0,2-1,5 và 0,3-2,0; Chiều cao: OR=0,9 và 0,8 với
95% CI là 0,4-0,9 và 0,3-1,8). Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa
thống kê với khoảng tin cậy chứa giá trị 1. Kết luận này trùng hợp với nhiều
nghiên cứu khác đều không thấy sự liên quan về chiều cao và cân nặng giữa
nhóm NKQK và nhóm NKQ dễ [11]. Giải thích điều này có lẽ tính chất bệnh
tật hàm mặt có liên quan trực tiếp đến giải phẫu đường hô hấp trên, do đó có
liên quan đến đặt NKQ[78].
Tuy nhiên, Một số nhận xét khác với nhận xét của chúng tôi như nghiên
cứu của Langeron O[123] về chỉ số trọng lượng cơ thể (IMC) cho thấy chỉ số
IMC >27 kg/ m2 có OR=1,6 (1,12-2,29), p=0,001 có ý nghĩa thống kê. Wilson
[96] cho thấy cân nặng ở nhóm có trọng lượng cơ thể cao, có tỷ lệ NKQK lớn
hơn so với nhóm có trọng lượng cơ thể thấp hơn, có ý nghĩa thống kê
(p<0,05). Wilson giải thích là có tương quan cân nặng với NKQK là do bệnh
nhân trong nghiên cứu có chỉ số cân nặng, chỉ số khối cơ thể lớn, dẫn đến sự
chiếm chỗ phần mềm vùng hầu họng, hạn chế không gian thao tác lưỡi đèn.
Hơn nữa, bệnh nhân béo thường kèm theo cổ ngắn, đây là một yếu tố có thể
gây khó khăn đặt NKQ.
4.2. Dự kiến đặt ống NKQK.
Dựa vào dự kiến trên lâm sàng về sơ đồ nhận biết đường thở khó trên
lâm sàng của Mallampati [56]( xem sơ đồ 1.1), đó là phối hợp dấu hiệu
Mallampati với các yếu tố không thuận lợi ( yếu tố dự kiến NKQK) áp dụng
vào lĩnh vực phẫu thuật HM, chúng tôi đưa ra tiêu chuẩn về dự kiến NKQK
trong nghiên cứu này gồm 3 loại là: dự kiến NKQ dễ, khó vừa và rất khó.
Kết quả nghiên cứu ở bảng 3.6 cho thấy dự kiến NKQ khó chiếm 19%,
trong đó phân loại dự kiến khó thực sự là 4,1% và dự kiến khó vừa chiếm
14,9%.
87
Trong tổng số 41 trường hợp được dự kiến đặt NKQ rất khó gồm 29 BN
của nhóm bệnh lý, tất cả đều có khít hàm hoặc hạn chế há miệng rất lớn, mà
nguyên nhân chính là các viêm nhiễm lớn vùng sàn miệng, hoại tử XHD gây
sẹo co kéo sau tia xạ, các u lớn ở lưỡi, XHD có tiên lượng bóp bóng qua
Mask khó khăn. 12 BN thuộc nhóm chấn thương mà chủ yếu là gãy XHD
phức tạp, gãy nhiều xương phối hợp, những BN này thường có kèm theo tổn
thương các tổ chức phần mềm vùng sàn miệng, gây sưng nề nhiều, khó thở
hoặc thở khò khè tiên lượng hô hấp bằng Mask rất khó khăn. Tất cả những
BN nhóm này đều khó khăn hoặc là đưa lưỡi đèn soi TQ do khít hàm hoặc là
tiên lượng khó khăn bóp bóng bằng Mask do phù nề sàn miệng vì các nguyên
do khác nhau, được chúng tôi xếp vào loại khó đặt NKQ thực sự.
Về liên quan giữa dự kiến NKQK với thực tế NKQK, bảng 3.7 cho thấy
tỷ lệ đặt NKQ khó thực tế (NKQK) đối với những trường hợp dự kiến NKQK
(hay còn gọi là giá trị dự đoán dương tínhVPP) là 47,6%, tỷ lệ đặt NKQ dễ
thực tế so với dự kiến NKQ dễ( hay giá trị dự đoán âm tínhVPN) là 88,9%.
Sự khác biệt về thực tế NKQ khó, dễ dựa trên dự kiến NKQK là có ý nghĩa
thống kê với p< 0,01 (chứng tỏ bảng dự kiến NKQK có giá trị tiên lượng
NKQK). Tương quan này có độ chênh OR= 7,3 với p < 0,01, có nghĩa là
trường hợp được dự kiến NKQK sẽ có nguy cơ đặt NKQ khó nhiều gấp hơn
7,3 lần trường hợp được dự kiến đặt NKQ dễ, có ý nghĩa thống kê.
Nếu lấy dự kiến NKQK là tiêu chuẩn để dự báo trường hợp NKQK thì
độ nhạy (Se) và độ đặc hiệu (Sp) tương ứng là 50,3% và 87,9%. Với độ nhạy
cho thấy 50,3% BN có NKQK được dự kiến chÝnh xác, độ đặc hiệu cho biết
87,9% tống số BN cã NKQ dễ được dự kiến chính xác. Giá trị dự đoán dương
tính (VPP) là 47,6% chính là tỷ lệ phần trăm BN được dự kiến NKQK chính
xác, nghĩa là còn khoảng hơn 50% là dương tính giả. Giá trị dự đoán âm tính
88
(VPN) bằng 88,9% chính là tỷ lệ NKQ dễ được dự kiến chính xác trong số
các BN dự đoán dễ, hay nói cách khác là còn 11,1% âm tính giả.
Kết quả cho thấy độ nhạy và giá trị dự đoán dương tính trong NC của
chúng tôi chưa thực sự cao, dự đoán dương tính giả còn chiếm khoảng 50%
các trường hợp. Nhưng ngược lại độ đặc hiệu và giá trị dự đoán âm tính tương
đối cao, chứng tỏ là BN được dự đoán NKQ dễ chính xác hơn
Về dự kiến NKQK có nhiều tác giả nghiên cứu và đưa ra tỷ lệ và giá trị
khác nhau, tùy thuộc vào lĩnh vực phẫu thuật khác nhau, tùy thuộc vào tiêu
chuẩn đặt ra khác nhau, và tùy thuộc vào sự phối hợp các yếu tố dự kiến khác
nhau. Do đó, sự so sánh là rất khó khăn và có sự khác nhau rất lớn giữa các tác
giả.
Sima Zué nghiên cứu trên 634 BN trong PT Tai mũi họng, Răng hàm
mặt, Chấn thương có dự kiến NKQK là 20,66% là phù hợp với NC của chúng
tôi trong lĩnh vực HM là 19% (bảng 3.6) và cho rằng dự đoán đúng lộ thanh
môn 72%, phát hiện chính xác (Se) 65% NKQK [148].
Langeron O nghiên cứu trên 1644 BN, đánh giá giá trị của tất cả các yếu
tố dự đoán NKQK, trên mô hình Logistic, cho thấy với độ tin cậy 95%,
Mallampati loại 4 cho xác suất cao nhất có OR=4,74 (3,56-6,31) với p<0,001,
thấp nhất là biến giới tÝnh OR=1,5 (1,06-2,12), p=0,002, đã kết luận là nguy
cơ NKQK gồm nhiều yếu tố và chỉ có thể đánh giá nhờ bảng điểm tổng hợp
các yếu tố nguy cơ [123].
Frerk [37] kết hợp tiêu chuẩn dự đoán KGC<7cm với Mallampati 3&4
có kết quả dự đoán với các giá trị Se= 81,2%, Sp= 97,8%, VPP 64,28% đều
cao hơn nghiên cứu của chúng tôi.
Như vậy, dự kiến một NKQK cho độ chính xác cao hay thấp tùy vào
từng nghiên cứu khác nhau, cho kết quả khác nhau, kết quả NC của chúng tôi
89
là phù hợp với các tác giả khác. Tuy nhiên, đa số các tác giả đều nhất trí là
cần phối hợp nhiều yếu tố dự kiến NKQK để cho độ chính xác cao [46],[55],
[78],[122],[139],[150].
Các giá trị dự đoán dương tính, độ nhạy đối với dự kiến NKQK ở nghiên
cứu của chúng tôi còn chưa cao. Mối liên quan NKQK thực tế với dự kiến
NKQK cho OR= 7,3 tuy có ý nghĩa thống kê (p<0,01) nhưng vẫn còn thấp.