Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (989.6 KB, 78 trang )
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
toán, tính thuế xuất nhập khẩu, Trung quốc cho phép một loại tỷ giá thứ hai được tồn tại,
sử dụng để mua bán, giao dịch trên thị trường ngoại tệ.
Chính sách tỷ giá thời kỳ này giúp TQ đẩy mạnh xuất khẩu, giảm thâm hụt
CCTM, CCTT và đưa đất nước thoát khỏi khủng hoảng
Năm 1991, Trung quốc chuyển từ tỷ giá cố định sang chế độ tỷ giá thả nổi có
quản lý. Tỷ giá trao đổi của đồng NDT thường xuyên dao động, đồng NDT hầu như hạ
giá.Tỷ giá danh nghĩa giữa đồng NDT với USD tương đối ổn định ở mức 5.2 -> 5.8
NDT/USD Lạm phát cao TQ, tác động xấu tới mục tiêu tăng trưởng và thúc đẩy xuất
khẩu.
Giai đoạn thứ ba: Từ năm 1994 lại đây. Thời kỳ phá giá mạnh đồng NDT và thống
nhất hai tỷ giá hướng tới một đồng NDT có khả năng chuyển đổi
Để khắc phục các khó khăn do thị trường tự phát gây nên, để thực hiện kế hoạch
mở cửa kinh tế đối ngoại, đồng thời tạo điều kiện cải thiện cán cân thương mại, Trung
quốc đã đưa tỷ giá chính thức lên ngang bằng với tỷ giá thị trường. Việc điều chỉnh
thống nhất hai loại tỷ giá được thực hiện từ ngày 01/01/1994. Trung quốc đã cho đồng
nhân dân tệ phá giá tới 35%, tỷ giá chính thức được điều chỉnh từ mức 5,7 NDT/USD lên
8,7 NDT/USD. Kèm theo đó là các quy định xóa bỏ chế độ tự giữ ngoại hối, các doanh
nghiệp thực hiện chế độ kết hối ngoại tệ 100%, các doanh nghiệp có nhu cầu ngoại tệ
thanh toán hàng nhập khẩu được mua ngoại tệ tại các ngân hàng được phép.
Từ năm 1994 đến nay Trung quốc đã thực hiện chuyển đổi tỷ giá theo cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước, tuy nhiên trên thực tế Trung quốc vẫn thực hiện cơ
chế tỷ giá cố định gắn với đồng USD. Những thay đổi của chính sách tỷ giá bắt đầu từ
năm 1994 lại đây đã góp phần tích cực thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế Trung
quốc. Trước năm 1994, Trung quốc luôn bị thâm hụt thương mại, cán cân vãng lai thiếu
ổn định.
Lớp: CH21H
Page 50
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
Cuối năm 1997, khi dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tăng lên 139,89 tỷ USD,
Trung Quốc mới nới lỏng chính sách kết hối ngoại tệ. Ngày 15/10/1997, Ngân hàng nhân
dân Trung Quốc ban hành Chỉ thị số 402 cho phép một số doanh nghiệp (Công ty xuất
nhập khẩu và doanh nghiệp sản xuất có giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu) được giữ
lại một phần ngoại tệ trên tài khoản với mức tối đa không quá 15% tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu hàng năm.
Năm 2002, dự trữ ngoại hối của Trung Quốc tăng lên 286,4 tỷ USD, chính sách
kết hối ngoại tệ tiếp tục được nới lỏng. Tại Chỉ thị số 87 của Cục Quản lý ngoại hối
Trung Quốc ban hành ngày 9/9/2002 quy định các công ty và doanh nghiệp được giữ
ngoại tệ trên tài khoản, mức tối đa không quá 20% tổng nguồn thu ngoại tệ từ giao dịch
vãng lai.
Trong năm 2005, Ngân hàng Trung ương (NHTW) Trung Quốc đã công bố thay
đổi chế độ tỷ giá. Tỷ giá sẽ được xác định dựa trên một rổ các đồng tiền (Basket), đồng
thời NHTW Trung Quốc cho phép biên độ dao động hàng ngày của các tỷ giá song
phương là 0,3%. Ngày 9/8/2005, Thống đốc NHTW Trung Quốc ZhouXia Chuan đã
công bố 11 đồng tiền trong rổ, trong đó các đồng tiền chính là đôla Mỹ, Euro, Yên Nhật
và đồng Won Hàn Quốc, ngoài ra các đồng Bảng Anh, Ruble Nga và Baht Thái… cũng
có mặt trong rổ tiền tệ nhưng có tỷ trọng nhỏ hơn nhiều.
Lớp: CH21H
Page 51
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
Bảng 4: Đồng Nhân dân tệ thời kì khủng hoảng tài chính Châu Á
Đến năm 2007, Dự trữ ngoại hối Trung Quốc đã tăng lên tới 1.528,249 tỷ USD.
Ngày 13/8/2007 Cục Quản lý ngoại hối ban hành Chỉ thị số 48 cho phép các tổ chức kinh
tế căn cứ nhu cầu sử dụng ngoại tệ phục vụ cho sản xuất kinh doanh được quyền giữ lại
số ngoại tệ từ giao dịch vãng lai trên tài khoản. Như vậy, sau 13 năm Trung Quốc mới
xóa bỏ chính sách kết hối ngoại tệ, chính sách này được xóa bỏ khi nền kinh tế nhiều
năm tăng trưởng mạnh, tỷ lệ lạm phát thấp, CCTT, CCTM dư thừa lớn, dự trữ ngoại hối
cao.
Đến năm 2008, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu vượt lên đứng thứ ba thế giới, chỉ
sau Mỹ và Đức. Đến cuối năm 2009, Trung quốc đã thay thế Đức trở thành nền kinh tế
xuất khẩu hàng đầu thế giới sau Mỹ. Trung quốc vẫn duy trì được tốc độ tăng trưởng
GDP cao trong nhiều năm liên tục, tính đến cuối năm 2008 đã vươn lên vị trí thứ ba thế
giới sau Mỹ và Nhật, năm 2009 vẫn đạt tỷ lệ tăng trưởng GDP trên 8%. Dự trữ ngoại hối
của Trung quốc đứng đầu thế giới…
Lớp: CH21H
Page 52
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
Tỷ giá đồng NDT thời điểm này đã bị đánh giá thấp khoảng 30% so với các đồng
tiền khác (40% so với USD và 20% so với EUR). Các nước châu Âu, Mỹ và Nhật bản
cho rằng Trung quốc đang sử dụng chính sách tỷ giá thấp nhân tạo để đẩy mạnh xuất
khẩu sản phẩm với giá rẻ hơn sang các nước, làm mất cân đối nghiêm trọng thị trường
vốn, tài chính quốc tế, đây là nguyên nhân chính gây nên khủng hoảng. Ngày càng nhiều
nước phản đối chính sách tỷ giá của Trung quốc.
Tháng 6/2010, Trung Quốc chính thức công bố áp dụng tỷ giá linh hoạt. Tháng
6/2010, trước thềm hội nghị thượng đỉnh G20 Trung Quốc đã chính thức công bố chấm
dứt chính sách tỷ giá áp dụng trong thời kì khủng hoảng khi nền kinh tế hồi phục trở lại
và áp lực lạm phát tăng lên. Đây được cho là biện pháp mà NHTW Trung quốc đưa ra
nhằm thực hiện mục tiêu kiềm chế lạm phát cao, kích cầu, bước đi mới cho việc chuyển
hướng từ xuất khẩu sang tiêu dùng nội địa. Tỷ lệ lạm phát tại Trung Quốc tháng 5/2010
leo lên mức 3,1%, cao nhất trong 19 tháng và vượt mức mục tiêu của chính phủ. Tỷ lệ lãi
suất cơ bản ở mức 5,31%. Tỷ lệ thất nghiệp 4,2%. Như vậy sau khi đồng NDT được điều
chỉnh linh hoạt, đồng nhân dân tệ đã tăng 1,8% lên mức 6,7081 nhân dân tệ/USD từ mức
6,8202 nhân dân tệ/USD sau 23 tháng tỷ giá neo cố định.
Tính đến ngày 11/8/2011, tỷ giá NDT/USD đã tăng lên 6,39. Đây là mức tăng cao
nhất kể từ tháng 6/2010. Một ngày trước đó, Fed cam kết giữ lãi suất ở mức thấp kỷ lục 0
– 0,25% đến giữa năm 2013. Số liệu công bố ngày 10/8 cũng cho thấy thặng dư thương
Lớp: CH21H
Page 53
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
mại tại Trung Quốc tháng 7/2011 lên mức cao nhất trong 2 năm. Tháng 7/2011, chỉ số
giá tiêu dùng của Trung Quốc tăng 6,5% so với cùng kỳ năm trước, mức độ cao nhất
trong 3 năm.
Việc Trung Quốc cho phép đồng NDT của mình tăng giá so với các đồng tiền
khác phần nào đã làm giảm áp lực đối với Trung Quốc từ phía các nước phương Tây, tuy
nhiên theo các chuyên gia đánh giá thì đồng NDT vẫn đang ở mức thấp hơn so với thực
tế tới 30-40%
Năm 2012: Trung Quốc cố tình định giá đồng Nhân dân tệ ở mức thấp hơn giá trị
thực nhằm hỗ trợ lĩnh vực xuất khẩu, theo đó tạo ra thế bất lợi cho các nước khác. Chính
phủ Trung Quốc thiết lập tỷ giá tham chiếu giữa USD và nhân dân tệ là 6,3328 nhân dân
tệ một USD, so với tỷ giá hôm qua là 6,3259 nhân dân tệ. Ngân hàng trung ương Trung
Quốc cho phép USD dao động trong biên độ 0,5% quanh mức tham chiếu trên trong
ngày.
1.2.Tác động tích cực và hạn chế chính sách tỷ giá Trung Quốc
Việc duy trì chính sách đồng Nhân dân tệ yếu trong thời gian dài bên cạnh việc
phối hợp đồng bộ với các công cụ tỷ giá, các chính sách tiền tệ đã giúp nền kinh tế Trung
Quốc có những lợi thế nhất định về mặt thương mại quốc tế, tăng trưởng kinh tế. Tuy
nhiên, Trung Quốc cũng đang phải hứng chịu những hệ lụy từ chính sách tỷ giá của
mình.
Tác động tích cực:
- Tạo ưu thế cạnh tranh thương mại cho các hàng hóa xuất khẩu của Trung Quốc
trên trường Quốc tế, kích thích sản xuất trong nước.
- Chính sách duy trì đồng NDT yếu được xem như là một biện pháp bảo hộ của
Trung Quốc đối trong thương mại quốc tế: một mặt vừa kích thích xuất khẩu, mặt khác
lại hạn chế nhập khẩu. ( Hàng hóa XK của TQ trở nên rẻ đi đối với nước ngoài, hàng hóa
nhập khẩu vào TQ trở nên đắt đỏ hơn)
- Đạt thặng dư thương mại liên tiếp nhiều năm góp phần thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế, đưa Trung Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ 2 trên thế giới.
Hạn chế chính sách tỷ giá Trung Quốc:
Lớp: CH21H
Page 54
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
- Các khoản vay bằng ngoại tệ và rủi ro đầu tư trong tương lai tăng lên khi các nhà
đầu tư dự kiến về tính không ổn định của tỷ giá hối đoái
- Tình hình tài chính bất ổn
- Tăng sự phụ thuộc nền kinh tế vào yếu tố bên ngoài
- Bóp méo nền kinh tể thế giới cụ thể các nước có quan hệ thương mại với TQ
Tuy nhiên, ngay trong những ngày đầu năm 2013, tỷ giá giao dịch của nhân dân tệ
so với USD trên thị trường đã liên tục tăng lên. Trên bảng giao dịch ngày 11/01/2013,
đồng nhân dân tệ đã tăng tới 81 điểm cơ bản lên 6,2712 RMB/USD, mức tăng cao nhất
trong 19 năm trở lại đây.
1.3.Ảnh hưởng tới Việt Nam:
Trung quốc là đối tác thương mại lớn nhất của Việt nam với tổng kim ngạch xuất
nhập khẩu liên tục tăng cao trong nhiều năm qua. Tổng kim ngạch mậu dịch hai chiều
tăng nhanh, bình quân khoảng 40%/năm. Năm 2008 con số này đạt 21,659 tỷ USD, năm
2009 đạt 20,751 tỷ USD, hết quý I năm 2010 là 5,37 tỷ USD, tăng 37,8% so với cùng kỳ
năm trước. Tuy nhiên nhập siêu của Việt nam từ thị trường Trung quốc ngày càng lớn về
giá trị, năm 2005 nhập siêu là 2,82 tỷ USD, năm 2007 là 9,15 tỷ USD, năm 2008 là 11,12
tỷ USD, năm 2009 11,53 tỷ USD, và quý I năm 2010 là 2,55 tỷ USD. (Nguồn: Tổng cục
thống kê). Mặt khác nhập siêu từ Trung quốc chiếm phần lớn tổng nhập siêu của Việt
nam, theo số liệu của bộ công thương công bố và báo cáo tổng hợp của tác giả Nguyễn
Duy Nghĩa, nguyên Phó Văn phòng bộ Thương mại cho thấy tỷ lệ nhập siêu từ Trung
quốc so với nhập siêu của cả nước đã và đang duy trì ở mức rất cao, năm 2001 là 18,7 %,
năm 2007 là 73,7%, năm 2008 là 69,8%, năm 2009 là 97,1% và dự đoán năm 2010 là
94,4%. Đây thực sự là những khó khăn của ngoại thương nước ta, trong khi ta luôn xuất
siêu với các thị trường như Mỹ, Anh, Đức, Úc, song nhập siêu từ thị trường Trung quốc
ngày một tăng và duy trì ở mức cao chưa từng có. Do đó, muốn hạn chế nhập siêu của
Lớp: CH21H
Page 55
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
Việt nam thì phải có những biện pháp thực sự hiệu quả để giảm thâm hụt thương mại với
Trung quốc.
1.4.Kinh nghiệm của Trung Quốc về điều hành chính sách tỷ giá – Bài học cho Việt Nam
Đối với ý kiến cho rằng nên để đồng Việt nam mất giá nhiều hơn nữa để khuyến
khích xuất khẩu.
Việc này Trung quốc đã làm thành công. Song qua nghiên cứu cho thấy đặc điểm
của nền kinh tế Trung quốc năm 1994, năm Trung quốc thực hiện phá giá đồng nhân dân
tệ không giống như Việt nam. Trước đó Trung quốc đã chuẩn bị những điều kiện tốt để
phá giá tiền tệ. Từ việc định hướng phát triển của nền kinh tế dựa vào xuất khẩu, việc
xây dựng cơ sở hạ tầng, phát triển các ngành công nghiệp sản xuất phụ trợ, cho đến việc
kết hối ngoại tệ, cân đối ngoại tệ, cơ cấu mặt hàng xuất, nhập khẩu đều phù hợp với việc
phá giá tiền tệ. Đối với Việt nam việc phá giá tiền tệ mạnh có thể liên quan đến 2 vấn đề,
phá giá có lợi cho xuất khẩu song giá đồng USD cao không có lợi cho nhập khẩu, nhập
Lớp: CH21H
Page 56
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
khẩu giảm sẽ ảnh hưởng đến phát triển sản xuất, mặt khác cơ cấu thương mại của Việt
nam quá phụ thuộc vào nhập khẩu, nhập khẩu giảm làm cho xuất khẩu giảm theo. Để
làm rõ vấn đề này, cần tìm hiểu sâu hơn về nguyên nhân thâm hụt thương mại của Việt
nam gia tăng trong những năm gần đây.
Cuộc cải tổ và chuyển đổi nền kinh tế của Trung Quốc trong thời gian qua đã thu
được nhiều kết quả, có những đóng góp quan trọng của việc điều hành cơ chế tỷ giá linh
hoạt, chủ động của các cơ quan chức năng Trung Quốc. Những kinh nghiệm thành công
cũng như các khó khăn trong cải cách kinh tế của Trung Quốc là những bài học quý giá
cho các nước chuyển đổi nền kinh tế như Việt Nam nghiên cứu và vận dụng. Chính sách
tỷ giá cũng cần được cải cách cho phù hợp với những chuyển đổi của nền kinh tế và
những mục tiêu đề ra qua từng thời kỳ.
2.CHÍNH SÁCH TỶ GIÁ CỦA THÁI LAN
2.1.Chính sách tỷ giá các giai đoạn và tác động tới kinh tế:
Giai đoạn trước 1997
Thái Lan bắt đầu thời kỳ công nghiệp hóa đất nước từ năm 1961, khi bắt đầu kế
hoạch phat triển năm năm lần thứ nhất. Tốc độ tăng trưởng GDP trong thập niên 60
khoảng 8%/năm, trong thập niên 70 khoảng 7%/năm và trong thập niên 80 khoảng
8%/năm. Tổng sản phẩm nội địa theo đầu người tăng từ mức 440 USD năm 1995 lên
3012 USD năm 1996. Nông nghiệp chiếm tỷ trọng 39% trong nền kinh tế vào năm 1961
giảm xuống còn 26,7% năm 1976 và chỉ còn 10,4% năm 1996. Giá trị xuất khẩu theo đầu
người đạt 630 USD/người năm 1991 đã tăng lên 1177 USD/Người năm 1996.
Như vậy, nhìn vào tốc độ tăng trưởng GDP của Thái Lan suốt hơn ba thập kỷ từ
1961 đến 1996, ta thấy rất yên tâm, vì tốc độ GDP bình quân hàng năm luôn từ 7% đến
8%, Thái Lan lúc nãy được cả thế giới khâm phục và ví như một con hổ của Châu Á.
-Các doanh nghiệp kinh doanh ngày càng kém hiệu quả
Lớp: CH21H
Page 57
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
Tăng trưởng GDP ở mức cao, kéo dài nhiều thập kỷ, cộng với lãi suất tiết kiệm
trong nước cao (bình quân tại thời điểm bấy giờ là 16,3% trong khi ở Mỹ là 7,6%) và tỷ
giá hối đoái gần như cố định đã tạo nên một môi trường kinh doanh hấp dẫn với các nhà
đầu tư nước ngoài, đặc biệt là đầu tư tài chính, cho vay ngắn hạn và tín dụng thương mại.
Như vậy, các doanh nghiệp trong nước, nếu vay vốn trực tiếp từ các ngân hàng, công ty
nước ngoài như Mỹ thì chỉ chịu lãi suất khoảng ½ lãi suất vay trong nước. Nếu các
doanh nghiệp tận dụng khả năng sử dụng vốn bên ngoài này không quan tâm thực sự đến
hiệu quả sử dụng vốn vay thì hiệu quả kinh tế sẽ giảm, dù tổng giá trị sản lượng có thể
tăng.
Một điểm đặc biệt ở Thái Lan là trong giai đoạn 1991 – 1996, đầu tư trực tiếp của
nước ngoài vào Thái Lan chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với đầu tư tài chính (gián tiếp) và sử
dụng vốn vay ngắn hạn của nước ngoài. Tổng đầu tư trực tiếp thời kỳ này là 11,791 tỷ
USD, tổng đầu tư trực tiếp thuần là 2,857 USD, do vậy tổng đầu tư gián tiếp thuần là
8,844 tỷ USD. Trong khi đó, tổng đầu tư tài chính thuần (cổ phần, cổ phiếu) là 16,4 tỷ
USD và tổng vay ngắn hạn thuần là 60,4 tỷ USD. Như vậy, trong tổng số vốn nước ngoài
thuần đã đổ vào Thái Lan thời kỳ 1991 – 1996 là 85,293 tỷ USD thì đầu tư trực tiếp chỉ
chiếm khoảng 10,36% và đầu tư gián tiếp 19,23% và tín dụng, vay ngắn hạn là 70,4%.
Việc sử dụng tới gần 90% tổng đầu tư tài chính thuần và tín dụng ngắn hạn sẽ tạo áp lực
tài chính rất lớn lên các công ty, vì phải trả lãi thường xuyền và bằng ngoại tệ, hậu quả là
nếu quản lý kinh doanh không tốt thì hiệu quả sản xuất kinh doanh của các công ty sẽ
thấp. Và thực tế, tỷ suất thu hồi hay tỷ suất lợi nhuận trên tài sản (ROA) bình quân các
doanh nghiệp đã giảm từ 8%/năm năm 1991 xuống còn 1%/năm năm 1996. Trong một
nền kinh tế mà lãi suất cho vay là 16,3%/năm còn hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp
là 1%/năm thì rõ ràng đã đang tích lũy nguy cơ khủng hoảng “phá sản doanh nghiệp”.
Bảng 5: Số liệu nền kinh tế Thái Lan giai đoạn 1991 – 1998
Năm
1991
1992
1993
1994
Tăng trưởng GDP (%)
Tỷ giá hối đoái
7.0
25.2
7.1
25.3
8.2
25.3
8.6
25
Lớp: CH21H
Page 58
199
5
8.7
25.1
1996
1997
1998
6.7
25.6
-0.4
47.2
-8.3
41.3
Bài tập nhóm 5
Lạm phát
Xuất khẩu (tỷ USD)
Nhập khẩu (Tỷ USD)
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
5.7
28.2
-34.2
4.1
32.1
-36.2
4.6
36.4
-40.1
Cán cân thương mại (tỷ -5.9
-4.16 -4.3
USD)
Cán cân tài khoản vãng lai -7.59 -6.3
-6.36
(tỷ USD)
Cán cân tài khoản vốn (tỷ 11.7 9.47 10.5
USD)
Đầu tư trực tiếp thuần (tỷ 1.85 1.97 1.57
USD)
(Nguồn: Tạp chí nghiên cứu phát triển 1/2003)
5.1
44.4
-48.2
5.8
55.4
63.4
-7.7
4.8
54.4
-60.9
5.6
56.7
-55.1
8.1
-9.5
-1.5
12.3
-14.7
-3.02
14.3
14.1
13.5
21.9
10.5
-15.8
-9.5
0.87
1.38
1.4
3.34
-3.7
-8.08
-40.6
-Ngân hàng kinh doanh ngày càng kém hiệu quả
Trước nhu cầu vốn của các doanh nghiệp và do có phần thiếu kiểm soát hiệu quả
kinh doanh của các doanh nghiệp đi vay nên các ngân hàng và công ty tài chính Thái Lan
rất tích cực vay nợ từ nước ngoài để tài trợ cho doanh nghiệp trong nước. Tổng số nợ
nước ngoài của hệ thống ngân hàng Thái Lan so với cung tiền đã tăng từ 2,8% năm 1991
lên 28,69% năm 1996. Tổng số nợ nước ngoài so với tổng số tài sản nước ngoài mà hệ
thống ngân hàng đang có tăng từ 171% năm 1991 lên 694% năm 1996. Trong cùng thời
gian này, tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản ROA của hệ thống ngân hàng Thái Lan đã giảm chỉ
còn 0,99%. Rõ ràng, Thái Lan đang tích lũy nguy cơ khủng hoảng thứ hai “phá sản các
ngân hàng”.
-Quốc gia tiến đến bờ vực mất khả năng thanh toán
Trong suốt các năm 1991 – 1996, cán cân thương mại của Thái Lan luôn bị thâm
hụt, tổng cộng là 35,26 tỷ USD. Thâm hụt tài khoản vãng lai năm 1996 tới 14,7 tỷ USD.
Một lý do của tình trạng này là do xuất khẩu bị kìm hãm, nhập khẩu được khuyển khích
khi tỷ giá danh nghĩa gần như cô định (25 Baht/USD), lạm phat trong nước cao hơn so
với Mỹ (5% so với 3%) làm cho đồng Baht bị lên giá so với đồng USD. Để bù đắp khoản
thâm hụt cán cân thương mại 35,26 tỷ USD và để có vốn đầu tư với mức 40% GDP mỗi
năm thì con đường không tránh khỏi là phải đi vay tiền nước ngoài. Vì vậy, nợ nước
Lớp: CH21H
Page 59
Bài tập nhóm 5
GVGD: TS. Đỗ Thị Kim Hoa
ngoài của Thái Lan không ngừng tăng từ 35,99 tỷ USD năm 1991 lên 89 tỷ USD năm
1996, gấp khoảng 2,47 lần trong vòng 5 năm và bằng 54% GDP. Mặc dù số nợ này được
dùng để tăng dự trự quốc gia, từ 18,4 tỷ USD năm 1991 lên 38,7 tỷ USD năm 1996, song
do đầu tư tài chính và tín dụng chiếm tới 90% tổng vốn đầu tư nước ngoài hàng năm, nên
số nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng tới 67% tổng số nợ nước ngoài 1995 và 51% năm 1996,
và nợ ngắn hạn năm 1995 và 1996 gấp 1,18 lần dự trữ ngoại tệ quốc gia. Tức là Thái Lan
đã mất đi khả năng thanh toán nợ nước ngoài từ năm 1995. Nếu như các nhà đầu tư Thái
Lan cũng phải thả nổi đồng Baht, thì chính họ sẽ bán cổ phiếu, trái phiếu, đòi nợ ngắn
hạn, đổi từ Baht sang USD, làm tăng cầu ngoại tệ đột ngột. Kết quả là tỷ giá hối đoái sẽ
tăng, dự trự ngoại tệ cạn kiệt, nguy cơ mất khả năng thanh toán của quốc gia sẽ ngày
càng cao.
Tóm lại từ cuối năm 1996 đến đầu năm 1997, Thái Lan đã xuất hiện 4 nguy cơ
khủng hoảng ở mức cao, cụ thể ở sơ đồ dưới đây:
Bảng 6: Các tiền đề và cơ chế khủng hoảng kinh tế - tài chính ở Thái Lan
Lớp: CH21H
Page 60